Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka
Chương Bốn
Catukkanipāta
Phẩm Cây Neem
Pucimandavagga
Ja 313 Khantīvādījātaka
Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo nóng giận.
Các tình tiết của câu chuyện đã được tả trước đây. Bậc Ðạo Sư bảo Tỷ-kheo ấy:
– Ông đã chấp trì giới luật theo Giáo pháp đức Phật, người chẳng hề biết nóng giận là gì, thế mà sao ông lại tỏ ra nóng giận? Các hiền trí ngày xưa nghĩ rằng họ phải chịu trăm ngàn đau đớn, bị chặt chân tay, bị cắt tai, mũi vẫn không hề tỏ ra nóng giận người khác.
Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa, khi một ông vua Kàsi trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn, thừa hưởng gia tài tám trăm triệu đồng. Bấy giờ, ngài là một thiếu niên tên Kundakakumāra. Khi lớn lên, ngài thành tựu mọi kiến thức về các ngành khoa học tại Takkasilā và sau đó trở thành một gia trưởng.
Khi cha mẹ mất đi, ngài nhìn đống tiền bạc và tự nghĩ: “Những người thân của ta đã tích nên tài sản này rồi lại ra đi mà chẳng mang theo được. Giờ đây, ta lại sở hữu tài sản này và lại đến lượt ta ra đi.” Thế rồi ngài cẩn thận chọn những người có đức bố thí xứng đáng và cho họ hết tất cả tài sản rồi ngài vào vùng Tuyết Sơn tu khổ hạnh. Ngài trú ở đó một thời gian lâu, sống bằng trái cây rừng. Sau đó ngài xuống các nơi có người ở để kiếm muối và dấm và đi lần đến Ba-la-nại, tại đó, ngài trú trong vườn cây của vua.
Ngày hôm sau, ngài đi khất thực trong thành phố và đến cửa nhà quan đại tướng. Vị quan này rất bằng lòng trước phong thái đặc biệt của vị ẩn sĩ liền mời ngài vào nhà, dâng ngài các thức ăn dành riêng cho chính ông. Sau đó, ông đưa ngài trở lại trú xứ của ngài trong vườn cây của vua.
Một hôm, vua Kalābu bị khích động vì rượu mạnh, đến vườn cây với đầy đủ mọi nghi trượng xa hoa, bao quanh ông là một đám vũ công. Ông cho đặt vương sàng tại đó và nằm gối đầu trên đùi một ái phi trong khi các nghệ nữ thiện xảo về đàn sáo nhảy múa trình diễn. Cả một khung cảnh thật là tráng lệ chẳng khác cảnh của Thiên chủ Ðế Thích, vua cõi trời! Rồi nhà vua ngủ thiếp đi. Các phụ nữ kia bảo:
– Chính vì đức vua mà chúng ta tấu nhạc, nay ngài đã ngủ rồi. Chúng ta cần chi phải đàn hát nữa?
Rồi họ ném bỏ đàn sáo đó đây, đi vào vườn cây và mải mê vui chơi với cây trái, bông hoa trong vườn.
Bấy giờ, Bồ-tát đang ở trong vuờn này dũng mãnh như một vương tượng. Ngài ngồi dưới gốc một cây Sāla đang nở hoa, hưởng hạnh phúc tối đa của kẻ từ bỏ thế tục. Các phụ nữ kia trong khi lang thang trong vườn, đến chỗ Bồ-tát ngồi. Họ bảo với nhau:
– Này các chị ơi, lại đây, chúng ta hãy ngồi xuống nghe vị Ẩn Sĩ đang ngồi dưới gốc cây này thuyết giảng cho đến khi đức vua thức dậy.
Họ đến chào ngài rồi ngồi vòng quanh ngài và nói:
– Xin giảng cho chúng tôi những điều đáng nghe.
Bồ-tát giảng đạo lý cho họ. Trong khi ấy, nàng vương phi sủng ái kia trăn trở thân mình làm vua thức dậy. Không thấy các phụ nữ kia đâu, vua hỏi:
– Bọn tiện tỳ ấy đi đâu cả rồi?
Nàng ái phi đáp:
– Tâu Ðại vương, họ bỏ đi và đang ngồi quanh một nhà tu khổ hạnh.
Nhà vua cầm kiếm vội vã ra đi và nói:
– Ta sẽ cho tên ẩn sĩ giả hiệu kia một bài học.
Những người được vua sủng ái nhất trong đám phụ nữ kia thấy vua giận dữ liền đến nắm lấy kiếm của vua xin vua bớt giận. Vua bước tới đứng bên cạnh Bồ-tát và hỏi:
– Này, nhà tu kia, ông giảng đạo lý gì thế?
Ngài đáp:
– Tâu Bệ hạ, tôi giảng về đạo lý kham nhẫn.
Vua hỏi:
– Kham nhẫn là gì?
– Là không giận hờn khi người ta rầy la, đánh đập, mắng chửi mình.
Vua bảo:
– Ðược rồi, ta sẽ xem đức kham nhẫn của ông thực sự như thế nào.
Rồi vua cho gọi quan hành hình lại. Ông này đang đi hành sự, cầm một cái rìu và một cái roi gai, mặc áo vàng, mang một tràng hoa đỏ. Ông đến chào vua và thưa:
– Tâu Ðại vương, tôi phải làm gì để vừa lòng ngài?
Vua phán:
– Tóm lấy và lôi cổ tên Ẩn Sĩ xảo quyệt đê tiện ấy đi, ném nó xuống đất, dùng roi gai mà đánh nó đằng trước, đằng sau và cả hai bên, quất cho nó hai ngàn roi.
Lệnh ấy được thi hành. Da trong, da ngoài của Bồ-tát bị xé rách tới thịt, máu tuôn xối xả. Vua lại hỏi:
– Này Ẩn Sĩ kia, ông dạy đạo lý gì?
– Tâu Ðại vương, đức kham nhẫn – Bồ-tát đáp.
– Ngài tưởng rằng đức kham nhẫn của tôi chỉ nằm dưới da; không phải thế đâu, nó nằm bên trong tim tôi, ngài không thể trông thấy được đâu.
Viên quan hành hình lại hỏi vua:
– Tâu Ðại vương, tôi phải làm gì để vừa lòng ngài?
Vua nói:
– Hãy cắt đứt hai bàn tay của tên Ẩn Sĩ giả hiệu ấy đi.
Thế là người kia xách rìu, đặt tội nhân vào bên trong vành tử tội rồi chặt đứt cả hai bàn tay Bồ-tát. Vua lại nói:
– Chặt hai bàn chân luôn.
Thế là hai bàn chân của ngài cũng bị chặt đứt. Máu vọt từ đầu các bàn tay chân như nước tuôn từ một cái bình thủng. Vua lại hỏi ngài thuyết giảng đạo lý gì. Ngài đáp:
– Tâu Chúa thượng, đức kham nhẫn. Tâu Ðại vương, ngài tưởng rằng đức kham nhẫn của tôi nằm tại các đầu bàn tay, bàn chân, thực không phải ở đó đâu, nó nằm ở nơi khác nữa kìa.
Vua nói:
– Hãy xẻo mũi và tai nó đi.
Viên quan hành hình làm theo như thế. Toàn thân Bồ-tát bây giờ nhuốm đầy máu. Vua lại hỏi đến đạo lý của ngài. Vị ẩn sĩ nói:
– Ngài chớ tưởng rằng đức kham nhẫn của tôi nằm ở chóp mũi và chóp tai của tôi; đức kham nhẫn của tôi nằm sâu trong tim tôi kia.
Vua nói:
– Tên Ẩn Sĩ giả mạo kia, nằm xuống đi rồi hãy ca ngợi đức kham nhẫn của ngươi.
Nói thế xong, vua dẫm lên ngực, chỗ phía trái tim của Bồ-tát, rồi bỏ đi.
Khi vua đã đi rồi, vị đại tướng kia đến lau chùi máu trên thân thể của Bồ-tát, băng bó các đầu bàn tay, bàn chân, tai mũi ngài và nhẹ nhàng đặt ngài ngồi vào một chỗ, đảnh lễ ngài rồi ngồi xuống một bên. Ông bảo:
– Kính thưa Tôn giả, nếu ngài có giận hờn kẻ gây tội ác với ngài thì xin ngài hãy giận hờn đức vua, chớ đừng có giận hờn một ai khác.
Ông yêu cầu Bồ-tát qua bài kệ đầu:
“Ai chặt đứt tay, chân,
Tai và mũi của Ngài,
Xin bậc Đại Dũng Sĩ,
Hờn riêng phần kẻ ấy,
Chớ diệt quốc độ này.”
“Yo te hatthe ca pāde ca,
kaṇṇanāsañca chedayi;
Tassa kujjha mahāvīra,
mā raṭṭhaṁ vinasā idaṁ”.
Bồ-tát nghe thế liền đọc bài kệ thứ hai:
“Ai chặt đứt tay, chân,
Tai và mũi của ta,
Mong Vua được sống lâu,
Người như ta không giận.”
“Yo me hatthe ca pāde ca,
kaṇṇanāsañca chedayi;
Ciraṁ jīvatu so rājā,
na hi kujjhanti mādisā”.
Khi vua rời khỏi vườn cây và ngay lúc ông vừa ra khỏi tầm nhìn của Bồ-tát, vùng đất kiên cố, dày hai trăm bốn mươi ngàn dặm bỗng nứt ra làm hai, lửa từ ngục A-tỳ (Avīci: Vô gián Ðịa ngục) vọt lên ập tới vua, trùm cả người ông như chiếc long bào hổ hoàng. Như vậy vua chìm trong đất ngay chỗ cổng vườn cây và bị tống hẳn vào đại ngục A-tỳ. Bồ-tát cũng chết vào cùng ngày ấy. Triều thần của vua và dân chúng mang các tràng hoa, dầu thơm, hương liệu đến làm lễ tống táng Bồ-tát. Có người bảo rằng Bồ-tát đã đi thẳng về dãy Tuyết Sơn. Nhưng theo bài kệ sau đây thì người ta lại bảo không phải như vậy:
Sa-môn thời xa xưa,
Tán dương về kham nhẫn,
Vua Kāsi lệnh chém,
Vẫn trú trong kham nhẫn.
Ahū atītamaddhānaṁ,
samaṇo khantidīpano;
Taṁ khantiyāyeva ṭhitaṁ,
kāsirājā achedayi.
Với hành động thô bạo,
Vua Kāsi trả liền,
Rơi vào trong địa ngục,
Chịu trả quả đắng cay.
Tassa kammapharusassa,
vipāko kaṭuko ahu;
Yaṁ kāsirājā vedesi,
nirayamhi samappitoti.
Khantīvādījātakaṁ tatiyaṁ.
Hai bài kệ trên được sáng tác từ Trí tuệ toàn hảo của đức Phật.
*
Khi bậc Ðạo Sư thuyết giảng xong, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, vị Tỷ-kheo nóng giận kia đắc quả Nhất Lai, và nhiều vị khác đắc quả Dự Lưu. Sau đó, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
– Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là Kalābu, vua xứ Kàsi; Xá-lợi-phất là quan tổng trấn; còn Ta là vị ẩn sĩ, người thuyết giảng về đức kham nhẫn.