WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Ja 317 Chuyện Khóc Người Chết

Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka

Chương Bốn
Catukkanipāta

Phẩm Cây Neem
Pucimandavagga

Ja 317 Matarodanajātaka

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một người chủ đất tại Xá-vệ.

Khi người anh của ông chết, ông quá đau đớn đến độ bỏ ăn, bỏ tắm rửa, xức dầu thơm. Quá sầu khổ, cứ mỗi chiều là ông đến nghĩa địa khóc than. Bậc Ðạo Sư vào lúc sáng sớm, phóng tầm mắt nhìn khắp thế gian, quan sát thấy người có khả năng đắc quả Dự Lưu, liền nghĩ: “Ngoài Ta ra chẳng ai có thể làm dịu nỗi sầu đau của ông ta và đưa ông đến quả Dự Lưu bằng cách kể cho ông ta chuyện xảy ra thời xưa được. Ta phải là nơi an trú cho ông”.

Vì thế hôm sau, khi đi khất thực về, Ngài mang theo một Tỷ-kheo trẻ tuổi đến nhà ông ấy. Nghe có bậc Ðạo Sư đến, người chủ đất liền sai sửa soạn một chỗ ngồi và mời Ngài vào. Sau khi đảnh lễ Ngài, ông ngồi xuống một bên. Khi bậc Ðạo Sư hỏi vì sao ông sầu não như thế, ông bảo rằng ông buồn khổ từ khi anh ông chết. Bậc Ðạo Sư dạy:

– Tất cả mọi hiện hữu do kết hợp mà nên đều vô thường, cái gì phải tan rã thì tan rã. Ta chẳng nên phiền não vì điều này. Các Hiền Trí ngày xưa vì biết như vậy nên không hề sầu khổ khi anh họ chết.

Rồi do yêu cầu của ông ta, bậc Ðạo Sư kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát tái sinh trong một gia đình phú thương, có gia tài đến tám trăm chục triệu. Khi ngài trưởng thành thì cha mẹ chết. Thế rồi người anh của Bồ-tát quản lý tài sản của gia đình và ngài sống phụ thuộc vào ông ta. Chẳng bao lâu người anh cũng chết do một cơn bạo bệnh. Bà con, bè bạn gần xa đã đến than khóc thảm thiết. Chẳng ai kiềm chế nỗi xúc động của mình. Nhưng Bồ-tát lại chẳng sầu chẳng khóc gì cả. Mọi người đều bảo:

– Coi kìa, anh nó chết mà nó vẫn thản nhiên như không, thực là một kẻ tâm hồn quá sắt đá. Chắc là nó muốn anh nó chết để mong được hưởng gấp đôi phần gia tài đấy.

Một người thân thích cũng trách cứ ngài:

– Này, anh của anh chết mà anh cũng chẳng nhỏ một giọt nước mắt nào cả ư?

Nghe thế ngài bảo:

– Do ngu dại mù quáng, chẳng biết gì đến Tám pháp ở thế giới (được – mất, khen – chê, vui – buồn, vinh – nhục) các người khóc than: Ôi anh ta đã chết! nhưng tôi và cả các người đều cũng sẽ chết hết. Tại sao các người lại không khóc khi nghĩ đến cái chết của chính mình? Mọi sự hiện hữu đều giả tạm, chúng luôn luôn thay đổi. Dù các ngươi, những kẻ ngu dại mù quáng, do vô minh không biết đến Tám pháp ở thế giới” mà cứ khóc than sầu khổ, còn tại sao tôi đây phải khóc chứ?

Nói xong, ngài đọc các bài kệ này:

“Chỉ khóc cho người chết,
Không khóc cho người sống,
Tất cả loài có thân,
Tuần tự đều phải chết.
“Mataṁ mataṁ evaṁ rodatha,
Na hi taṁ rodatha yo marissati;
Sabbepi sarīradhārino,
Anupubbena jahanti jīvitaṁ.

Thiên, nhân, loài bốn chân,
Loài chim, bò sát lớn,
Thân này không kiểm soát,
Mạng chung, dẫu đang vui.
Devamanussā catuppadā,
Pakkhigaṇā uragā ca bhogino;
Samhi sarīre anissarā,
Ramamānāva jahanti jīvitaṁ.

Loài người khổ hay vui,
Bất lực trong thăng trầm,
Khóc lóc lợi ích gì,
Sao gieo rắc sầu muộn?
Evaṁ calitaṁ asaṇṭhitaṁ,
Sukhadukkhaṁ manujesvapekkhiya;
Kanditaruditaṁ niratthakaṁ,
Kiṁ vo sokagaṇābhikīrare.

Kẻ lừa đảo, phóng dật,
Rồ dại hay trơ tráo,
Không có sự tu tập,
Nói hiền trí là ngu,
Bởi các pháp thế gian,
Những kẻ ấy chẳng rành.”
Dhuttā ca soṇḍā akatā,
bālā sūrā ayogino;
Dhīraṁ maññanti bāloti,
ye dhammassa akovidā”ti.

Matarodanajātakaṁ sattamaṁ.

Bồ-tát thuyết giảng Chân lý cho những người kia như thế và giải trừ mọi phiền não cho họ.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giáo lý, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc bài giảng Tứ Ðế, người chủ đất đắc quả Dự Lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, bậc Hiền Trí giải trừ phiền não cho mọi người bằng cách thuyết giảng giáo lý kia chính là Ta.