WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Ja 321 Chuyện Kẻ Đốt Cốc

Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka

Chương Bốn
Catukkanipāta

Phẩm Kẻ Đốt Cốc
Kuṭidūsakavagga

Ja 321 Kuṭidūsakajātaka

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên, về một vị Sa-di đốt túp lều lá của trưởng lão Mahākassapa (Ðại Ca-diếp).

Nhân duyên đưa đến câu chuyện vốn từ Vương Xá. Bấy giờ, Trưởng lão ấy sống trong một túp lều ở gần Vương Xá. Có hai vị Sa-di lo giúp việc cho Tôn giả, một vị Sa-di rất được việc, còn vị Sa-di kia có tánh hạnh xấu. Bất cứ việc gì vị Sa-di kia làm, vị Sa-di này làm như thể do chính vị Sa-di làm vậy. Chẳng hạn như khi vị Sa-di kia lấy nước cho Trưởng lão súc miệng, thì vị Sa-di này lại đến gặp trưởng lão và thưa:

– Bạch thầy nước đã sẵn, xin thầy súc miệng.

Và khi bạn vị Sa-di lo thức dậy sớm để lo quét dọn lều của Trưởng lão, thì ngay khi Trưởng lão xuất hiện, vị Sa-di cứ đụng tay vào thứ này vật nọ, làm như là toàn túp lều được chính vị Sa-di dọn dẹp vậy.

vị Sa-di lo tròn nhiện vụ kia tự nghĩ: “Anh bạn xấu tính này, hễ ta làm cái gì thì anh ta cứ nói như thể chính anh ta làm. Ta sẽ phơi bày tính xấu của anh ấy mới được”.

Vì thế khi anh chàng dối trá kia từ làng trở về, ăn xong liền đi ngủ, vị Sa-di này nấu nước nóng rồi đem dấu trong phòng và chỉ để lại ít nước trong nồi đun. vị Sa-di kia thức dậy, đi đến và thấy hơi bốc lên liền tự nghĩ: “Chắc chắn anh bạn ta đã đun nước và để trong buồng tắm:” Thế là vị Sa-di đến gặp Trưởng lão và thưa:

– Thưa thầy, nước đã sẵn trong buồng tắm, xin thầy vào tắm.

Trưởng lão theo vị Sa-di đi tắm, nhưng chẳng thấy có nước trong buồng tắm, liền hỏi vị Sa-di nước đâu, vị Sa-di vội trở vào bếp, bỏ gáo vào nồi trống và múc nước, chiếc gáo chạm vào đáy nồi kêu lạch cạch (từ đó về sau vị Sa-di bị người ta gọi là Gáo-lạch-cạch)

Vào lúc ấy vị Sa-di kia vào lấy nước trong phòng sau rồi bảo:

– Thưa thầy, xin thầy vào tắm.

Trưởng lão tắm xong và bây giờ Tôn giả đã biết tánh hạnh xấu của Gáo-lạch-cạch. Chiều hôm ấy khi vị Sa-di ta đến dọn cơm, Tôn giả khiển trách vị Sa-di:

– Khi kẻ nào đã phát nguyện tu hành, tự mình đã làm điều gì thì kẻ ấy mới có quyền báo: “Tôi đã làm điều ấy”. Nếu không, thì đó chỉ là một lời nói dối có toan tính. Từ nay trở đi chớ có phạm ác hạnh như thế nữa.

Vị Sa-di giận Trưởng lão và hôm sau vị Sa-di không chịu theo Tôn giả vào Thành khất thực. Nhưng vị Sa-di kia đi theo Tôn giả.

Còn Gáo-lạch-cạch đến viếng một gia đình thủ hộ của Trưởng lão. Người nhà hỏi Trưởng lão đâu, thì vị Sa-di bảo ngài bị bệnh, phải ở nhà. Họ hỏi vị Sa-di cần gì, vị Sa-di bảo:

– Hãy cho tôi các thứ như thế… như thế…

Rồi vị Sa-di mang các thứ ấy đến một nơi vị Sa-di thích và ăn xong trở về lều.

Hôm sau, Trưởng lão đến thăm gia đình ấy và ngồi xuống với họ. Họ nói:

– Phải chăng ngài không được khỏe? Nghe nói hôm qua ngài phải ở trong phòng. Chúng tôi có gởi ít thức ăn nhờ vị Sa-di kia mang về, ngài có dùng các thứ ấy không?

Trưởng lão giữ vẽ bình thản không nói gì và sau khi dùng xong bữa. Tôn giả trở về Tinh xá.

Vào buổi chiều, khi vị ấy đến hầu thầy, vị Trưởng lão bảo vị Sa-di:

– Này con, con đến xin gia đình kia, trong làng kia, vị Sa-di bảo: “Trưởng lão cần phải ăn các thứ như thế… như thế…” rồi họ nói chính vị Sa-di ăn các thứ ấy. Khất thực như thế là hết sức bất chánh. Hãy giữ gìn, chớ phạm ác hạnh như vậy nữa.

Thế là vị ấy cứ mãi nuôi lòng thù hận Trưởng lão, vị Sa-di nghĩ: “Hôm qua chỉ do một chút nước, ông ấy mắng xối vào mình, còn bây giờ tức giận vì ta đã ăn một nắm cơm ở nhà thủ hộ của ông, ông ta gây sự với ta nữa, ta sẽ tìm cách cư xử xứng hợp với ông ấy”.

Ngày hôm sau, khi Trưởng lão vào thành phố khất thực, vị Sa-di ta lấy búa đập vỡ hết các bình bát để đựng thức ăn và châm lửa đốt túp lều lá rồi phóng chạy đi. Lúc còn sống, vị Sa-di trở thành kẻ cùng khổ đói khát giữa đời này và tàn tạ dần cho đến khi chết vị Sa-di bị sinh vào Ðại địa ngục A-tỳ (Avici). Mọi người đều biết đến hành vi xấu xa của vị Sa-di.

Một hôm vài Tỷ-kheo từ Vương Xá đến Xá Vệ. Sau khi cất bình bát và áo ngoài vào trong phòng chung, họ đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống.

Bậc Ðạo Sư vui vẻ trò chuyện với họ và hỏi họ từ đâu đến.

– Bạch Thế Tôn, từ Vương Xá.

– Thế ai là Pháp sư ở đó? – Ngài hỏi.

– Bạch Thế Tôn , Tôn giả Mahākassapa (Ðại Ca-diếp).

– Này các Tỷ-kheo, Kassapa có được an lành không? Ngài hỏi.

– Bạch Thế Tôn, Trưởng lão vẫn khỏe mạnh. Nhưng một vị Sa-di giận dữ vì bị Trưởng lão quở trách đã nổi lửa đốt túp lều của vị ấy rồi bỏ đi.

Bậc Ðạo Sư nghe thế liền bảo:

– Này các Tỷ-kheo, Kassapa độc cư còn tốt hơn là sống chung với một kẻ ngu dại như thế.

Nói xong Ngài đọc một bài kệ, được ghi lại trong Kinh Pháp cú:

“Tìm không được bạn đường,
Hơn mình hay bằng mình,
Thà quyết sống một mình,
Không bè bạn kẻ ngu.”

Sau đó Ngài lại bảo các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo không phải bây giờ vị ấy mới phá hoại túp lều và cảm thấy căm giận người đã quở trách mình. Ngày xưa vị ấy cũng đã căm giận như thế.

Rồi Ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con chim Singila (loài chim có sừng). Khi trở thành một con chim lớn, ngài đến trú tại vùng Tuyết Sơn và xây một cái tổ đúng ý thích, có thể chống chọi với mưa gió.

Bấy giờ vào mùa mưa, mưa hoài không dứt, một con Khỉ kia ngồi gần bên Bồ-tát, răng đánh lập cập vì trời lạnh quá. Trông thấy Khỉ khổ sở như vậy, Bồ-tát nói chuyện với nó và đọc bài kệ đầu:

“Đầu, tay, chân của Khỉ,
Có khác chi loài người,
Nhưng vì lý do gì,
Người không có nhà ở?”
“Manussasseva te sīsaṁ,
hatthapādā ca vānara;
Atha kena nu vaṇṇena,
agāraṁ te na vijjati”.

Khỉ nghe thế liền đọc bài kệ thứ hai:

“Này chim Singila,
Đầu, tay, chân của ta,
Quả thật giống loài người,
Cái tối thắng của người,
Trí tuệ ta không có.”
“Manussasseva me sīsaṁ,
hatthapādā ca siṅgila;
Yāhu seṭṭhā manussesu,
sā me paññā na vijjati”.

Bồ-tát nghe xong liền đọc bài kệ nữa:

“Kẻ có tâm trơ tráo,
Tâm khinh suất, mưu hại,
Giới thường không bền vững,
Không thể nào trong sạch.
“Anavaṭṭhitacittassa,
lahucittassa dubbhino;
Niccaṁ addhuvasīlassa,
sukhabhāvo na vijjati.

Khỉ ơi, hãy gắng sức,
Biết phân biệt đúng sai,
Dựng cốc làm chỗ ở,
Che chở khỏi gió lạnh.”
So karassu ānubhāvaṁ,
vītivattassu sīliyaṁ;
Sītavātaparittāṇaṁ,
karassu kuṭavaṁ kapī”ti.

Kuṭidūsakajātakaṁ paṭhamaṁ.

Khỉ tự nghĩ: “Con vật này nhờ trú ẩn một nơi tránh được mưa tỏ ra khinh dễ ta”. Thế rồi quyết bắt cho được Bồ-tát, nó phóng tới vồ lấy ngài. Nhưng Bồ-tát đã bay lên không, tung cánh đi nơi khác. Còn con khỉ, sau khi đập phá tổ chim, liền bỏ đi.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện, Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, vị Sa-di nổi lửa đốt túp lều là con Khỉ, còn Ta là con chim Singila.