Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka
Chương Bốn
Catukkanipāta
Phẩm Kẻ Đốt Cốc
Kuṭidūsakavagga
Ja 326 Kakkārujātaka
Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên, cách Ðề-bà-đạt-đa đã gây ra sự ly gián trong Tăng Chúng như thế nào, rồi sau đó bỏ đi với các đệ tử trưởng của ông, và khi đám này tan rã, ông hộc ra một dòng máu nóng.
Các Tỷ-kheo đem chuyện ấy bàn trong Pháp đường và bảo rằng Ðề-bà-đạt-đa đã dùng vọng ngôn gây nên sự ly gián kia, sau đó mang bệnh, và chịu bao nhiêu đau đớn. Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi các Tỷ-kheo đang họp nhau ngồi bàn tán chuyện gì. Sau khi nghe kể lại, Ngài dạy:
– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà từ xưa kia, ông ta cũng đã là một kẻ nói dối; và không phải chỉ bây giờ mà từ xưa kia, ông ta cũng đã phải chịu khổ đau vì nói dối.
Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-lai-nại, Bồ-tát là một vị thần ở cõi trời Ba mươi ba. Bấy giờ có một cuộc lễ lớn tại Ba-la-nại, Một đám đông rắn thần Nāga và chim Kim sí điểu Garuda cùng các địa thần đến dự lễ. Và bốn Thiên thần từ cõi trời Ba mươi ba mỗi vị mang một tràng thiên hoa Kakkāru cũng đến dự lễ. Suốt trong khoảng mười hai dặm của thành phố đều sực nước hương thơm của các hoa ấy. Mọi người đều xôn xao, tự hỏi không biết các vị mang các bông hoa ấy là ai. Các Thần nói:
– Họ đang nhìn chúng ta đấy.
Rồi từ sân điện bay lên và dùng thần lực đứng ngay trên không. Ðám đông tụ tập lại, vua cùng các hoàng tử theo vua đến hỏi các vị thần ấy từ cõi nào đến:
– Chúng ta từ cõi trời Ba mươi ba đến .
– Các ngài định đến đây để làm gì?
– Ðể dự lễ.
– Các hoa này là hoa gì thế?
– Chúng tên là thiên hoa Kakkāru.
– Thưa các ngài, ở thế giới thiên thần,các ngài có thể đeo hoa khác. Hãy cho chúng tôi hoa này đi.
Các thần trả lời:
– Các hoa này chỉ xứng với những vị thần có đại lực; còn đối với hạng thấp kém, những kẻ ngu si, tội lỗi trong cõi người thì hoa này không xứng hợp. Nhưng những ai trong cõi người có được những đức hạnh như thế … như thế… thì những bông hoa này xứng hợp với họ.
Rồi vị trưởng các Thần ấy đọc lên bài kệ đầu:
“Của cải ai kiếm được,
Chơn chánh không lừa gạt,
Có danh, không đắm say,
Được hoa Kakkāru.”
“Kāyena yo nāvahare,
vācāya na musā bhaṇe;
Yaso laddhā na majjeyya,
sa ve kakkārumarahati”.
Nghe thế, một vị Bà-la-môn hoàng gia tự nghĩ: “Ta chẳng có một đức tính nào trong các đức tính nói trên, nhưng ta sẽ nói dối để có được những bông hoa này. Ðược như thế mọi người sẽ tin rằng ta có các tính hạnh ấy”. Rồi ông ta nói:
– Tôi có đủ những đức tính ấy.
Thế là ông ta được trao hoa để mang. Rồi ông ta đến xin vị thần thứ hai, vị này đọc bài kệ thứ hai:
“Của cải ai kiếm được,
Chơn chánh không lừa gạt,
Có của, không say đắm,
Được hoa Kakkāru.”
“Dhammena vittameseyya,
na nikatyā dhanaṁ hare;
Bhoge laddhā na majjeyya,
sa ve kakkārumarahati”.
Bà-la-môn nói:
– Tôi đầy đủ những đức tính ấy.
Và thế là ông ta được trao hoa để mang. Rồi ông đến xin vị thần thứ ba, vị này đọc bài kệ thứ ba:
“Người nào tâm kiên định,
Lòng tin không thối chuyển,
Không thọ vật thực ngon,
Được hoa Kakkāru.”
“Yassa cittaṁ ahāliddaṁ,
saddhā ca avirāginī;
Eko sāduṁ na bhuñjeyya,
sa ve kakkārumarahati”.
Vị Bà-la-môn nói:
– Tôi đầy đủ những đức tính ấy.
Thế là ông ta được trao hoa để mang. Rồi ông đến xin vị thần thứ tư, vì này đọc bài kệ thứ tư:
“Không mắng nhiếc người thiện,
Dẫu có mặt hay không,
Người nói sao làm vậy,
Được hoa Kakkāru.”
“Sammukhā vā tirokkhā vā,
Yo sante na paribhāsati;
Yathāvādī tathākārī,
Sa ve kakkārumarahatī”ti.
Kakkārujātakaṁ chaṭṭhaṁ.
Bà-la-môn nói:
– Tôi đầy đủ các đức tính này.
Và ông được trao hoa để mang.
Như vậy các vị Thần tặng bốn tràng hoa cho Bà-la-môn rồi quay về cõi trời. Khi các Thần vừa ra đi, Bà-la-môn bị một cơn đau khốc liệt tấn công, ở trong đầu như có mũi nhọn đâm và như có đồ vật bằng sắt đập vào. Cuồng trí vì đau đớn, ông lăn lộn vật vã và kêu la ầm ĩ. Khi mọi người hỏi:
– Thế này là sao?
– Tôi tự xưng có những đức hạnh mà tôi vốn không có. Tôi đã nói dối để xin các Thần ấy những bông hoa này, hãy gỡ hoa ra khỏi đầu tôi.
Họ liền gỡ hoa ra nhưng không được vì hoa đã gắn chặt như một vành sắt. Thế rồi họ đỡ ông ta lên và đưa ông về nhà. Vua bảo các cận thần:
– Bà-la-môn ác hạnh kia sắp chết, ta nên làm gì đây?
– Tâu Ðại vương – các quan đáp – chúng ta hãy tổ chức một lễ hội. Các Thiên Thần sẽ trở lại.
Vua liền tổ chức một lễ hội và các Thiên Tử ấy trở lại và làm ngập tràn thành phố với hương thơm của các bông hoa kia, họ đứng tại chỗ cũ trong sân chầu. Dân chúng tụ tập và mang Bà-la-môn ác hạnh kia, đặt nằm sấp xuống trước các Thiên thần. Ông ta van xin các Thần:
– Kính lạy các ngài, xin hãy tha mạng cho tôi.
Các Thần bảo:
– Các bông hoa này không thích hợp với một kẻ độc ác xấu xa. Trong tâm, ông đã định lừa dối chúng ta và ông đã phải nhận lấy hậu quả của những lời ông nói dối.
Sau khi quở trách mọi người, các Thần gỡ tràng hoa khỏi đầu ông, khuyến dụ mọi người rồi quay về trú xứ riêng của họ.
*
Khi bậc Ðạo Sư thuyết giảng xong. Ngài nhận diện Tiền thân:
– Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là Bà-la-môn ấy, Ca-diếp là một trong các Thiên thần, Mục-kiền-liên là vị Thần thứ hai, Xá-lợi-phất là vị Thần thứ ba, còn ta là vị Thần Trưởng chúng.