WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Ja 336 Chuyện Brahāchatta

Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka

Chương Bốn
Catukkanipāta

Phẩm Chim Cu
Kokilavagga

Ja 336 Brahāchattajātaka

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một kẻ xảo quyệt.

Tình tiết đưa đến câu chuyện đã được kể trước đây.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là quan đại thần và là cố vấn của vua về thế sự và thánh sự. Vua Ba-la-nại mang một đạo quân lớn đi đánh vua Kosala, đến Xá-vệ và sau trận chiến, đã vào thành bắt vua Kosala làm tù nhân. Bấy giờ vua Kosala có một con trai là vương tử Chatta. Chàng giả trang thoát đi.

Ðến Takkasilā chàng học được ba bộ Vệ-đà và mười tám ngành văn học nghệ thuật. Thế rồi chàng rời Takkasilā và trong khi nghiên cứu cách ứng dụng các học nghệ, chàng đến một làng ở biên địa. Ở một khu rừng gần đó có năm trăm ẩn sĩ sống trong các lều lá của họ. Vương tử đến với họ. Chàng mong mỏi học hỏi họ nên chàng cũng trở thành ẩn sĩ và sau đó chàng học được mọi kiến thức của họ. Chẳng bao lâu chàng trở thành người lãnh đạo của đám môn đệ ấy.

Một hôm chàng gọi các đạo hữu của chàng lại và nói:

– Này các hiền giả, tại sao các bạn không đi đến vùng trung tâm?

Họ bảo:

– Thưa Tôn giả, chúng tôi nghe nói vùng trung tâm là nơi những người khôn ngoan sống. Họ đặt cho mình những câu hỏi, họ khiến mình phải cảm ơn, phải chúc tụng và họ trách cứ những kẻ thô lậu. Vì thế chúng tôi không dám đến đó.

– Chớ sợ, chàng bảo – tôi sẽ lo các thứ ấy cho các bạn.

Họ bảo:

– Thế thì chúng tôi sẽ đi.

Rồi tất cả đều mang theo các vật dụng cần thiết để đi đường và đến Ba-la-nại.

Bấy giờ vua Ba-la-nại, sau khi chiếm lĩnh toàn thể vương quốc Kosala, đặt các viên chức tâm phúc ở lại làm quan cai trị, còn vua gom góp mọi tài sản quý giá rồi mang chiến lợi phẩm quay về Ba-la-nại. Vua bỏ đầy các vật quý giá kia trong các bình bằng sắt rồi đem chôn trong ngự viên và vẫn sống ở nơi ấy.

Các ẩn sĩ kia ngủ đêm ở trong ngự viên ấy, hôm sau vào thành khất thực, đến cổng cung điện. Vua rất thích cung cách của họ đến độ gọi họ vào và mời họ ngồi trên bệ, hỏi họ nhiều vấn đề như vậy, như vậy … Chatta chiếm được lòng vua nhờ chàng đáp được hết mọi câu hỏi của vua. Vua lại càng bằng lòng hơn nữa, và hứa cho tất cả được ở trong vườn cây của mình.

Bấy giờ, Chatta biết thần chú tìm ra kho tàng được chôn dấu. Trong lúc trú tại đó, chàng cứ tự nghĩ: “Ðâu là chỗ ông ấy có thể cất giấu tiền bạc của cha ta nhỉ?” Rồi đọc thần chú và kiếm tìm khắp nơi, chàng khám phá ra rằng của cải ấy được chôn trong vườn cây. Nghĩ rằng với tiền bạc ấy, chàng có thể khôi phục vương quốc của mình, chàng liền gọi các ẩn sĩ kia lại và bảo:

– Này các bằng hữu, tôi là con của vua Kosala. Khi vương quốc của chúng tôi bị vua Ba-la-nại chiếm, tôi đã giả trang trốn thoát và toàn mạng đến nay, giờ đây, tôi đã chiếm được tài sản thuộc về gia đình tôi. Với tài sản này, tôi sẽ khôi phục vương quốc của tôi. Các bạn định sẽ làm gì nào?

– Chúng tôi sẽ cùng đi với ngài. Họ đáp.

– Ðồng ý.

Chàng bảo, rồi sai làm những cái bao lớn bằng da. Ðêm đến, chàng đào lỗ ở khoảng đất kia và lấy các bình chứa tiền bạc lên. Chàng bỏ tiền vào các bao và lấy cỏ đựng đầy các bình kia. Chàng ra lệnh năm trăm đạo hữu cùng mang tiền bạc rồi chạy về Xá-vệ.

Nơi đây, chàng bắt hết các quan chức của vua và khôi phục vương quốc của chàng. Chàng xây thành, tháp canh và thực hiện nhiều công việc khác nữa. Chàng xây dựng một thành phố vững chắc chống lại cuộc tiến công của bất cứ một ông vua cừu địch nào, và chàng ở tại đó.

Vua Ba-la-nại nghe trình:

– Các nhà tu khổ hạnh đã lấy kho tàng trong vườn của ngài và chạy đi rồi.

Vua vào vườn, mở các bình ra và thấy chỉ có cỏ trong đó mà thôi. Vì mất kho báu, vua ngập tràn sầu muộn. Vua vào thành phố vừa lang thang khắp nơi vừa thì thầm: “Cỏ, cỏ”. Chẳng có ai có thể làm vơi nỗi sầu muộn của vua được.

Bồ-Tát tự nghĩ: “Vua đang gặp lúc quá khổ. Ngài cứ lang thang đây đó và nói nhảm mãi. Ngoài ta ra, không ai đủ sức để xua nỗi sầu muộn của ngài được. Ta sẽ giải thoát cho ngài khỏi cơn đau khổ. Thế rồi, một hôm Bồ-Tát ngồi im lặng cùng với vua, khi vua bắt đầu nói nhảm, ngài đọc bài kệ đầu:

“‘Cỏ, cỏ’, Ngài lảm nhảm,
Ai đem cỏ cho Ngài?
Ngài luôn miệng nói Cỏ,
Có Cỏ, Ngài làm gì?”
“Tiṇaṁ tiṇanti lapasi,
ko nu te tiṇamāhari;
Kiṁ nu te tiṇakiccatthi,
tiṇameva pabhāsasi”.

Vua nghe Bồ-Tát nói thế liền trả lời bằng bài kệ thứ hai:

“Bậc phạm hạnh danh tiếng,
Chatta đã đến đây,
Lấy hết tài sản ta,
Rời đi, để lại cỏ.”
“Idhāgamā brahmacārī,
brahā chatto bahussuto;
So me sabbaṁ samādāya,
tiṇaṁ nikkhippa gacchati”.

Nghe thế, Bồ-Tát đọc bài kệ thứ ba:

“Việc này đã được làm,
Dẫu muốn nhiều hay ít,
Chiếm lấy cho bản thân,
Như chúng không lấy cỏ,
Nhét cỏ lại trong bình,
Có gì mà than vãn?”
“Evetaṁ hoti kattabbaṁ,
appena bahumicchatā;
Sabbaṁ sakassa ādānaṁ,
anādānaṁ tiṇassa ca”.
(…)

Nghe thế, vua đọc bài kệ thứ tư:

“Người nào có giới hạnh,
Không bao giờ làm vậy,
Kẻ ngu thực hành giới,
Giới ấy không bền vững,
Làm sao có trí được?”
“Sīlavanto na kubbanti,
bālo sīlāni kubbati;
Aniccasīlaṁ dussīlyaṁ,
kiṁ paṇḍiccaṁ karissatī”ti.

Brahāchattajātakaṁ chaṭṭhaṁ.

Khi vua trách cứ Chatta như vậy và nghe những lời ấy của Bồ-tát, vua liền thoát khỏi cơn sầu muộn và từ đó trị vì vương quốc của mình rất công chính.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện tiền thân:

– Bấy giờ Tỷ-Kheo xảo quyệt kia là đạo sĩ Chatta, còn Ta là vị quan hiền trí nọ.