WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Ja 376 Chuyện Avāriya

Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka

Chương Sáu
Chakkanipāta

Phẩm Avāriya
Avāriyavagga

Ja 376 Avāriyajātaka

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người lái đò.

Người ta bảo kẻ này là phàm phu vô trí: y không biết được các đức tính của Tam Bảo và các bậc hiền nhân. Y nóng vội, thô lỗ và hung bạo. Một Tỷ-kheo ở vùng quê nọ muốn đi yết kiến đức Phật, vào buổi chiều đến bến đò trên sông Aciravatī và bảo người lái đò:

– Này hiền giả, tôi muốn qua sông, hiền giả cho tôi lên đò đi.

– Thưa Tôn giả, trời tối rồi, hãy ở lại đây.

– Này hiền giả, ta không thể ở lại đây, cho ta qua sông.

Người lái đò bực tức nói:

– Vậy thì ngài Sa-môn hãy mau lên đi.

Rồi đưa vị Tỷ-kheo lên đò, nhưng y lái đò thật vụng về khiến nước văng vào mạn đò làm ướt y của vị Tỷ-kheo, và đến khi trời tối mới đưa được ông qua bờ kia.

Khi vị Tỷ-kheo đến tinh xá, ông không thể kịp yết kiến đức Phật ngay hôm ấy.

Hôm sau, ông đi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư đáp lễ và hỏi ông đến khi nào:

– Thưa hôm qua.

– Thế sao mãi hôm nay ông mới đến thăm ta?

Khi nghe rõ lý do, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa, kẻ ấy cũng thô lỗ, y làm phiền các trí nhân ngày xưa giống như đã làm phiền ông.

Rồi theo lời thỉnh cầu, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sanh vào một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài học tập đủ mọi môn nghệ thuật tại Takkasilā, rồi trở thành một vị khổ hạnh. Sau một thời gian dài sống toàn củ, quả rừng ở vùng Tuyết Sơn, ngài đi đến Ba-la-nại để tìm muối và dấm. Ngài ở trong vườn ngự uyển và hôm sau vào kinh thành khất thực. Từ sân thượng hoàng cung, vua thấy ngài và hài lòng trước tướng mạo oai nghi của ngài nên cho người triệu ngài vào cung và cúng dường thực phẩm. Vua hứa mời ngài an trú trong ngự uyển và hàng ngày vua đến tham kiến ngài.

Bồ-tát bảo:

– Thưa Ðại vương, một vị vua phải trị nước công bình, tránh xa Bốn ác đạo, đầy nhiệt tâm tinh cần, kham nhẫn, từ ái, lân mẫn toàn dân.

Với lời khuyến giáo thông thường như thế, ngài ngâm hai vần kệ đầu:

“Chúa cõi trần, chớ giận,
Bậc thủ lãnh xa binh,
Xin chớ có nóng giận,
Không giận kẻ nổi giận,
Đức Vua được tôn vinh.
“Māsu kujjha bhūmipati,
māsu kujjha rathesabha;
Kuddhaṁ appaṭikujjhanto,
rājā raṭṭhassa pūjito.

Ở làng hay ở rừng,
Đất trũng hay đất bằng,
Thần khuyên, ở mọi nơi,
Bậc thủ lãnh xa binh,
Đại Vương chớ nóng giận.”
Gāme vā yadi vāraññe,
ninne vā yadi vā thale;
Sabbattha anusāsāmi,
māsu kujjha rathesabha”.

Như vậy, Bồ-tát ngâm đôi vần kệ ấy hàng ngày cho vua nghe. Vua hoan hỷ ban tặng ngài một ngôi làng có số lợi tức là một trăm ngàn đồng vàng, song ngài từ chối. Bồ-tát sống theo cách này suốt mười hai năm liền. Sau đó ngài nghĩ: “Ta đã ở đây quá lâu, nay ta muốn du hành qua quốc độ rồi trở về”.

Thế là không báo với vua, ngài chỉ nói riêng với người giữ vườn:

– Này Hiền giả, ta thấy chán, ta muốn du hành trong nước rồi trở về, nhờ bạn trình với đức vua.

Ngài đi ngay ra bến đò ở sông Hằng. Ở đó có gã chèo đò ngu ngốc Cha của Avāriya, y không hiểu đạo hạnh của bậc hiền nhân, cũng chẳng biết luôn cả việc ích lợi hay thiệt hại của riêng mình. Khi dân chúng muốn qua sông Hằng, trước tiên y đưa họ qua rồi sau đó đòi tiền đò. Có khi họ không trả tiền, y liền gây sự với họ, rồi chỉ nhận được lời mạ lỵ và đấm đá chứ rất ít tiền bạc, y thật ngu dại mù quáng đến thế.

Về gã này, bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ ba phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài:

“Cha Avāriyā,
Người chèo đò Sông Hằng,
Đưa người qua sông trước,
Rồi mới đòi tiền công,
Nên sanh ra cãi vả,
Của cải chẳng gia tăng.”
“Avāriyapitā nāma,
ahu gaṅgāya nāviko;
Pubbe janaṁ tāretvāna,
pacchā yācati vetanaṁ;
Tenassa bhaṇḍanaṁ hoti,
na ca bhogehi vaḍḍhati”.

Bồ-tát đến gặp gã lái đò này và bảo:

– Hiền giả, hãy đưa ta qua bờ kia.

– Này Sa-môn, ngài sẽ trả tiền cho tôi chứ? Y đáp.

– Này Hiền giả, ta sẽ chỉ cho hiền giả biết cách làm tăng trưởng tài lợi, an lạc và đức hạnh.

Gã lái đò nghĩ thầm: “Chắc chắn vị này sẽ cho ta một cái gì đó”.

Rồi y đưa ngài sang sông và nói:

– Xin cho tôi tiền đò.

Bồ-tát bảo:

– Ðược rồi, này Hiền giả.

Và thế là muốn dạy cho y biết trước tiên phải làm cách nào để tăng thêm của cải, ngài ngâm vần kệ này:

“Hỏi tiền, chưa qua đò,
Người đã qua, muốn qua,
Cả hai suy nghĩ khác.
“Atiṇṇaṁyeva yācassu,
apāraṁ tāta nāvika;
Añño hi tiṇṇassa mano,
añño hoti pāresino.

Gã lái đò nghĩ thầm: “Ðây chỉ là lời vị ấy khuyên ta, nay phải cho ta thêm cái gì chứ”. Song Bồ-tát bảo:

– Này Hiền giả, Hiền giả đã có cách làm ra tiền rồi đấy, nay hãy nghe cách làm tăng an lạc cùng đức hạnh.

Rồi ngài lại ngâm vần kệ khuyến giáo:

Ở làng hay ở rừng,
Đất trũng hay đất bằng,
Ta khuyên, ở mọi nơi,
Hiền giả chớ nóng giận.”
Gāme vā yadi vāraññe,
ninne vā yadi vā thale;
Sabbattha anusāsāmi,
māsu kujjhittha nāvika”.

Như thế, sau khi đã dạy cách làm tăng trưởng an lạc và đức hạnh, ngài bảo:

– Vậy là Hiền giả có cách làm tăng an lạc và đức hạnh.

Nhưng gã ngu si kia không xem lời khuyến giáo của ngài ra gì cả, lại đáp:

– Này Sa-môn, đây là các thứ ngài cho tôi thế tiền phà đấy à?

– Ðúng vậy, Hiền giả.

– Tôi không cần thứ ấy, cho tôi thứ khác kia.

– Này Hiền giả, ngoài thứ ấy ta không có gì khác.

– Thế tại sao ngài lại đi trên thuyền tôi?

Y đáp, và ném vị khổ hạnh lên bờ, ngồi lên ngực ngài và đấm vào mồm ngài.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Các vị thấy khi nhà khổ hạnh khuyến giáo vua, thì nhận được ân tứ một ngôi làng, còn khi khuyến giáo như vậy với một gã lái đò ngu ngốc thì được vài cái đấm vào mồm. Cho nên khi khuyến giáo phải lựa người thích hợp, chớ nói với người không thích hợp.

Rồi Ngài ngâm vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng trí của Ngài:

“Chỉ với một lời khuyên,
Vua ban cả ngôi làng,
Cùng lời khuyên bảo ấy,
Người chèo đò đánh ta.
“Yāyevānusāsaniyā,
rājā gāmavaraṁ adā;
Tāyevānusāsaniyā,
nāviko paharī mukhaṁ.

Trong khi gã kia đánh vị Sa-môn, vợ y đem cơm lại cho y, thấy vậy liền bảo:

– Này chàng, đây là vị khổ hạnh trong triều vua, đừng đánh ngài.

Y nổi giận đáp:

– Cô lại cấm ta đánh kẻ tu hành giả mạo này ư?

Rồi y nhảy lên đánh vợ ngã xuống đất. Ðĩa cơm đổ hết vỡ tan, còn vợ y phải trụy thai.

Quần chúng vây y lại và la lớn:

– Quân khốn nạn giết người.

Họ trói y lại đưa đến nhà vua. Ngài xử phạt y theo pháp luật.

Với Trí tuệ Tối thắng, bậc Ðạo Sư giải thích vấn đề qua vần kệ cuối cùng:

Cơm đổ, Vợ Y đánh,
Thai chết trước khi sanh,
Lời khuyên kẻ chèo đò,
Không tăng trưởng lợi ích,
Như thú với vàng ròng.”
Bhattaṁ bhinnaṁ hatā bhariyā,
Gabbho ca patito chamā;
Migova jātarūpena,
Na tenatthaṁ abandhi sū”ti.

Avāriyajātakaṁ paṭhamaṁ.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Khi kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu):

– Vào thời ấy, gã lái đò là người lái ngày nay, vua là Ānanda và vị khổ hạnh chính là Ta.