WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Ja 379 Chuyện Núi Neru

Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka

Chương Sáu
Chakkanipāta

Phẩm Avāriya
Avāriyavagga

Ja 379 Nerujātaka

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một vị Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng vị ấy học được các phương thức hành thiền của bậc Ðạo Sư xong, liền ra một làng ở biên địa. Tại đó dân chúng hài lòng với phong cách của Ngài, nên cúng dường thực phẩm, dựng một thảo am ở trong rừng và yêu cầu Ngài ở lại đó rồi bày tỏ lòng tôn kính trọng vọng Ngài. Nhưng sau đó họ lại rời bỏ Ngài, để đi theo các đạo sư thuộc phái Thường kiến, rồi lại bỏ các vị này để theo giáo phái Ðoạn kiến, xong lại bỏ phái này để theo phái khổ hạnh lõa thể, vì đạo sư các phái này cứ lần lượt xuất hiện. Do thế vị Tỷ-kheo này rất phiền lòng khi sống chung với những người không phân biệt thiện ác kia.

Sau thời an cư mùa mưa và lễ Tự tứ (Pavāranā), vị ấy trở về hầu bậc Ðạo Sư và khi Ngài hỏi, ông kể lại những nơi ông đã cư trú trong mùa mưa vừa qua và ông đã phải phiền lòng ra sao vì những người không biết thiện ác. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Các bậc trí ngày xưa, ngay khi còn là loài vật, cũng không sống chung một ngày với những kẻ không biết thiện ác, tại sao ông lại làm như vậy?

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm một chim Thiên nga màu vàng óng. Ngài sống cùng em trai trên đỉnh núi Cittakuta và ăn lúa dại trên vùng Tuyết Sơn. Một hôm bay về Cittakuta, đôi chim thấy ngọn núi Neru màu vàng rực rỡ liền đến ở trên đỉnh. Chung quanh núi có nhiều loài chim và dã thú cùng sống để kiếm ăn trên bãi. Từ lúc bọn chúng đến đây, tất cả đều nhuộm màu vàng do ánh sáng từ núi chiếu ra. Chim em của Bồ-tát thấy vậy, song không hiểu lý do liền hỏi:

– Vì cớ sao ở đây lại như vậy?

Và chim cất tiếng ngâm hai vần kệ đầu nói chuyện cùng anh:

“Chúng ta là ưu tú,
Trong số những loài chim,
Khi đến ngọn núi này,
Sống bên đám quạ đen,
Tất cả chung một màu.
“Kākolā kākasaṅghā ca,
mayañca patataṁ varā;
Sabbeva sadisā homa,
imaṁ āgamma pabbataṁ.

“Đây, ngọn núi Neru,
Là ngọn núi tối thượng,
Mọi loài sống nơi đây,
Đều có màu vàng óng.”
“Imaṁ nerūti jānanti,
manussā pabbatuttamaṁ;
Idha vaṇṇena sampannā,
vasanti sabbapāṇino”.

Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba đáp lại:

“Nơi nào không kính trọng,
Xem thường bậc thiện nhân,
Kính nể kẻ hạ liệt,
Không nên sống nơi ấy.
“Amānanā yattha siyā,
santānaṁ vā vimānanā;
Hīnasammānanā vāpi,
na tattha vasatiṁ vase.

Chim em nghe lời này liền ngâm ba vần kệ tiếp còn lại:

Ai biếng nhác, khôn khéo,
Ai hèn nhác, dũng cảm,
Tất cả đều tôn vinh,
Thiện nhân rời nơi đó,
Hỡi núi không phân minh.
Yatthālaso ca dakkho ca,
sūro bhīru ca pūjiyā;
Na tattha santo vasanti,
avisesakare nare.

Núi Neru không phân,
Hạ liệt, ưu tú, trung,
Neru không phân biệt,
Chúng ta rời Neru.”
Nāyaṁ neru vibhajati,
hīnaukkaṭṭhamajjhime;
Avisesakaro neru,
handa neruṁ jahāmase”ti.

Nerujātakaṁ catutthaṁ.

Cùng với lời này cả đôi chim bay về núi Cittakūta.

*

Khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo kia đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Thiên nga em là Ānanda, và Thiên nga anh chính là Ta.