WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Ja 380 Chuyện Āsaṅka

Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka

Chương Sáu
Chakkanipāta

Phẩm Avāriya
Avāriyavagga

Ja 380 Āsaṅkajātaka

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự cám dỗ một Tỷ-kheo do người vợ cũ gây ra.

Hoàn cảnh này sẽ xuất hiện trong Tiền thân Indriya, số 423.

Bậc Ðạo Sư nhận thấy vị Tỷ-kheo này thối thất do mơ tưởng đến người vợ cũ, vì thế Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đang làm hại ông, ngày xưa cũng vì kẻ ấy mà ông đã hy sinh cả bốn đạo quân và sống ba năm liền ở vùng Tuyết Sơn trong cảnh đầy gian khổ.

Nói xong Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn tại một làng trong xứ. Khi ngài lớn lên, ngài học các nghệ thuật ở Ðại học Takkasilā, sau đó trở thành một vị khổ hạnh đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, sống bằng củ quả ở rừng Tuyết Sơn. Vào thời ấy có một thiếu nữ đức hạnh vẹn toàn từ cõi trời Ba mươi ba giáng trần, đầu thai làm một thiếu nữ trong đóa hoa sen trên hồ nước. Trong khi các hoa khác già cỗi héo tàn, rơi rụng thì hoa ấy lớn dần và đứng thẳng trên cành.

Vị khổ hạnh đến tắm trong hồ nhận thấy thế, nghĩ thầm: “Các hoa khác rơi rụng, song hoa này cứ lớn dần ra và thẳng đứng, sao lạ thế này?” Ngài liền mặc áo tắm và lội đến đó, mở đóa sen ra, ngài trông thấy cô bé gái. Ngài cảm thấy thương yêu nàng như con mình, liền đem cô bé về thảo am, chăm sóc nuôi nấng. Nàng lớn dần đến năm mười sáu tuổi trở thành rất xinh đẹp, dung sắc nàng vượt hẳn dung sắc loài người, nhưng chưa đạt đến dung sắc chư Thiên.

Một hôm Thiên chủ Sakka hiện xuống hội kiến Bồ-tát. Thiên chủ thấy thiếu nữ này liền hỏi chuyện và được biết nàng ở đâu ra. Ngài hỏi:

– Nàng cần những thứ gì, thưa Tôn giả?

– Một chỗ cư trú, y phục nữ trang và thực phẩm, này Thiên chủ.

Ngài liền hóa hiện một cung bằng pha lê cho nàng ở, cùng với bảo tọa, y phục, nữ trang, thực phẩm thần và tiên tửu. Thiên cung này bay xuống trần gian và dừng lại ở nơi nàng đang sống. Khi nàng bước vào trong cung, nó lại bay lên đến giữa không trung. Nàng chuẩn bị đủ mọi thứ phụng dưỡng Bồ-tát trong khi nàng sống trong cung này.

Một người kiểm lâm thấy nàng liền hỏi ngài:

– Thưa Tôn giả, nàng ấy là gì của ngài?

– Con gái ta đấy.

Người ấy liền đi về Ba-la-nại trình vua:

– Tâu Ðại vương, tiểu thần vừa thấy trong vùng Tuyết Sơn cô con gái của một vị khổ hạnh có dung sắc tuyệt thế.

Vua bị cám dỗ khi nghe chuyện này vội bảo người kiểm lâm làm hướng đạo cùng đi với vua và bốn đạo binh về hướng ấy. Cắm lều trại xong, vua đem người kiểm lâm và đám cận thần đến thảo am. Vua kính chào Bồ-tát và bảo:

– Thưa Tôn giả, nữ nhân là thứ bất tịnh đối với đời tu hành, vậy để trẫm chăm sóc tiểu thư.

Bấy giờ Bồ-tát đã đặt cho cô gái tên Āsankā vì nàng được ngài đem về nuôi nhờ ngài lội qua hồ nước do lòng nghi hoặc (Āsankā): “Cái gì ở trong hoa sen này?”. Ngài không nói thẳng với vua: “Hãy đem nàng đi”, mà lại bảo:

– Thưa Ðại vương, nếu ngài biết tên con gái ta thì hãy đem nàng đi.

– Thưa Tôn sư, nếu ngài nói ra thì trẫm sẽ biết.

– Ta sẽ không nói đâu, khi nào ngài biết tên ấy thì cứ đem nàng đi.

Vua chấp thuận, từ đó cứ suy xét cùng với đám cận thần: “Tên nàng là gì nhỉ?” và đưa ra đủ thứ tên khó đoán với Bồ-tát: “Những tên nọ tên kia là tên nàng”. Song Bồ-tát bảo không phải và từ chối lời thỉnh cầu. Vì vậy một năm trôi qua trong khi vua xem xét tên nàng.

Sư tử và nhiều dã thú đến vồ lấy mọi người và binh sĩ của vua, lại thêm nhiều hiểm họa vì rắn rết, ruồi muỗi. Nhiều người khác chết vì lạnh. Vua bảo Bồ-tát:

– Trẫm cần gì nàng ấy nữa?

Và vua bỏ đi.

Thiếu nữ Āsankā hiện ra trên cửa sổ pha lê mở rộng. Vua thấy nàng liền bảo:

– Chúng ta không tìm ra tên nàng nên chúng ta sẽ ra đi, nàng cứ ở lại Tuyết Sơn này.

– Tâu Ðại vương, nếu ngài ra đi, ngài sẽ chẳng bao giờ tìm được một vương phi như thiếp nữa. Trên cõi trời Ba mươi ba, tại vườn Cittalatā, có một loài cây leo tên Āsāvatī. Trái của nó chứa một thứ tiên tửu, những ai uống rượu ấy một lần là phải say suốt bốn tháng nằm yên trên thiên tọa. Nó chỉ sinh trái một lần trong một ngàn năm, cho nên các Thiên tử, dù ham mê rượu nồng, vẫn chịu nhịn khát để đón chờ tiên tửu ấy. Họ bảo nhau: “Ta sẽ hái quả cây này”, rồi cứ liên tục đến canh chừng cây ấy suốt cả ngàn năm và bảo nhau: “Cây mọc có tốt chăng?”

Còn Ðại vương, chỉ trong vòng một năm đã sinh lòng bất mãn, hễ ai hái được kết quả của niềm hy vọng là đạt hạnh phúc. Thiếp xin ngài khoan bất mãn vội.

Do vậy, nàng ngâm ba vần kệ đầu:

“Dây āsāvatī,
Mọc trên vườn Thiên Giới,
Cittalatāvana,
Ngàn năm ra một quả,
Chư Thiên hằng mong đợi,
Khi quả nó sanh ra.
“Āsāvatī nāma latā,
jātā cittalatāvane;
Tassā vassasahassena,
ekaṁ nibbattate phalaṁ.

Đại Vương hay ước mong,
Ước mong quả hạnh phúc,
Cả loài chim, lưỡng sanh,
Bọn chúng đều ước nguyện.
Taṁ devā payirupāsanti,
tāva dūraphalaṁ satiṁ;
Āsīseva tuvaṁ rāja,
āsā phalavatī sukhā.

Chim ước mong thành tựu,
Dẫu đến nơi xa xôi,
Đại Vương hay ước mong,
Ước mong quả hạnh phúc.”
Āsīsateva so pakkhī,
āsīsateva so dijo;
Tassa cāsā samijjhati,
tāva dūragatā satī;
Āsīseva tuvaṁ rāja,
āsā phalavatī sukhā”.

Vua lại mê say vì lời nàng, rồi triệu tập quần thần một lần nữa và cố đoán tên nàng, cứ mỗi lần đoán mười tên mãi đến khi một năm nữa trôi qua. Song tên nàng vẫn không ở trong số mười lời phỏng đoán kia, nên Bồ-tát từ chối lời vua thỉnh cầu. Nàng lại hiện ra trên khung cửa sổ và vua bảo:

– Thôi nàng ở lại đây, trẫm sắp ra đi.

– Tại sao ra đi, tâu Ðại vương?

– Vì trẫm không thể nào đoán ra tên nàng.

– Tâu Ðại vương, tại sao ngài không thể đoán ra? Niềm hy vọng không phải là không có thành công. Một con hạc đậu trên đỉnh đồi cũng đạt được mong ước, tại sao ngài không thể đạt được chứ? Tâu Ðại vương, hãy kham nhẫn. Một chim hạc đã tìm nơi ăn trong một hồ sen, song nó bay lên tận đỉnh đồi. Nó ở lại đó hôm ấy và hôm sau tự nhủ: “Ta sống thật an lạc tại đỉnh đồi này. Nếu không cần xuống đồi, ta cứ ở đây tìm thức ăn nước uống và đậu tại đây hôm nay thật thích thú biết bao”.

Chính ngay hôm ấy, Sakka Thiên chủ đã dẹp tan các thần Asura (A-tu-la) và làm chúa tể cõi trời Ba mươi ba, tự nhủ: “Mọi mong ước của ta đã đạt được đỉnh cao thành tựu. Hôn nay có ai trong rừng chưa đạt niềm mong ước chăng?” Suy xét như vậy ngài thấy con hạc và nghĩ: “Ta sẽ làm cho niềm mong ước của con hạc được thành tựu”. Không xa con hạc đậu có một dòng suối, Thiên chủ đưa con suối đầy thức ăn lên đỉnh đồi, như thế chim hạc không cần đi đâu vẫn có cá ăn nước uống thỏa thích suốt ngày ở nơi ấy. Sau đó dòng suối đổ xuống và trôi đi xa. Tâu Ðại vương, con hạc đã đạt kết quả niềm hy vọng của nó như vậy, tại sao Ðại vương sẽ không đạt được kia chứ? Xin Ðại vương cứ hy vọng nữa, hy vọng mãi.

Nàng nói và ngâm vần kệ còn lại.

Vua nghe chuyện nàng kể, lại say mê sắc đẹp nàng, bị lời nàng lôi cuốn, nên ở thêm một năm nữa để phỏng đoán cả trăm tên nàng. Sau ba năm, vua tìm đến Bồ-tát và hỏi:

– Thưa Tôn giả, tên nàng có nằm trong trăm tên này chăng?

– Thưa Ðại vương, ngài không biết tên ấy đâu.

Vua vái chào Bồ-tát và bảo:

– Chúng tôi xin từ giã lên đường.

Và vua ra đi.

Thiếu nữ Āsankā lại đứng bên cửa sổ pha lê. Vua trông thấy nàng liền bảo:

– Thôi nàng ở lại, chúng ta sắp lên đường.

– Tại sao thế, tâu Ðại vương?

– Nàng làm ta đẹp lòng vì lời nói chứ không phải vì tình yêu của nàng. Ta say mê lời nói dịu ngọt của nàng, nên đã ở đây ba năm ròng, nay ta quyết ra đi.

Rồi vua ngâm các vần kệ sau:

“Lời nói làm hài lòng,
Những hành động thì không,
Hoa có sắc không hương.
“Sampesi kho maṁ vācāya,
na ca sampesi kammunā;
Mālā sereyyakasseva,
vaṇṇavantā agandhikā.

Lời nói dẫu tốt đẹp,
Với bạn chẳng thi hành,
Không bố thí, cho đi,
Tình bạn ấy phai nhạt.
Aphalaṁ madhuraṁ vācaṁ,
yo mittesu pakubbati;
Adadaṁ avissajaṁ bhogaṁ,
sandhi tenassa jīrati.

Nói được nên làm được,
Không làm được chớ nói,
Bậc trí biết rõ ràng,
Người không làm mà nói.
Yañhi kayirā tañhi vade,
yaṁ na kayirā na taṁ vade;
Akarontaṁ bhāsamānaṁ,
parijānanti paṇḍitā.

Sức lực ta cạn kiệt,
Lương thực cũng không còn,
Ta nghi mạng suy tàn,
Giờ ta phải ra đi.”
Balañca vata me khīṇaṁ,
pātheyyañca na vijjati;
Saṅke pāṇūparodhāya,
handa dāni vajāmahaṁ”.

Khi nàng Āsankā nghe lời vua liền đáp:

– Tâu Ðại vương, ngài biết tên thiếp rồi, ngài vừa nói ra tên ấy. Xin hãy nói cho phụ thân biết tên thiếp và đem thiếp cùng ra đi.

Nói vậy xong, nàng liền ngâm vần kệ:

“Thưa thủ lãnh xa binh,
Ngài vừa nói tên thiếp,
Đại Vương đến gặp Cha,
Xin cầu hôn thần thiếp.”
“Etadeva hi me nāmaṁ,
Yaṁ nāmasmi rathesabha;
Āgamehi mahārāja,
Pitaraṁ āmantayāmahan”ti.

Āsaṅkajātakaṁ pañcamaṁ.

Vua đến gặp Bồ-tát và nói:

– Thưa Tôn giả, tiểu thư tên là Āsankā.

– Thưa Ðại vương, ngài đã biết tên nàng, vậy hãy đem nàng ra đi.

Vua kính lễ Bồ-tát và đến cung pha lê bảo nàng:

– Này, quý cô nương, phụ thân nàng đã gả nàng cho ta, vậy hãy đến đây ngay.

– Tâu Ðại vương, thiếp sẽ đi xin phép phụ thân. Nàng bảo.

Rồi từ cung pha lê, nàng bước xuống đảnh lễ Bồ-tát, được ngài ưng thuận và cho phép ra đi cùng nhà vua. Vua đem nàng về Ba-la-nại, cùng nàng sống hạnh phúc, sinh được thêm nhiều hoàng tử và công chúa. Còn Bồ-tát tiếp tục hành Thiền định và tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc các Sự Thật kết thúc, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Āsankā là người vợ cũ kia, vua là vị Tỷ-kheo bất mãn này và vị khổ hạnh chính là Ta.