WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Ja 385 Chuyện Vua Nandiyamiga

Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka

Chương Sáu
Chakkanipāta

Phẩm Avāriya
Avāriyavagga

Ja 385 Nandiyamigarājajātaka

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Ngài hỏi vị Tỷ-kheo:

– Có thật là ông phụng dưỡng người thế tục?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn

– Họ là ai?

– Bạch Thế Tôn, đó là cha mẹ con.

– Tốt lành thay, tốt lành thay, này Tỷ-kheo, ông duy trì Giới luật của các trí nhân ngày xưa, vì các vị ấy ngay khi sinh làm thú cũng hy sinh tính mạng vì cha mẹ.

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, lúc vua nước Kosala ngự trị dân chúng tại Saketa (tức là Oudh), Bồ-tát được sinh làm con nai. Khi lớn lên, ngài có tên là Nandiyamiga (Hỷ Lộc) với tính tình và đức hạnh ưu thắng, ngài phụng dưỡng song thân mình.

Vua Kosala có ý thích săn bắn, hằng ngày đi vào rừng cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, vì thế dân chúng không thể làm nghề canh tác và nghề thương mãi của họ được. Họ tụ tập nhau bàn luận:

– Này các ông, đức vua của chúng ta đang hủy hoại nghề nghiệp của chúng ta, đời sống gia đình ta đang tàn tạ, nên chăng là chúng ta phải rào lâm viên Anjanavana lại, làm một cổng lớn, đào một hồ nước và gieo cỏ mọc lên, rồi vào rừng cầm gậy trong tay, đập vào các bụi rậm, như thế đuổi được bầy nai ra và đưa chúng đi vào lâm viên ở như bầy bò trong chuồng? Sau đó chúng ta đóng cổng lại, trình đức vua việc ấy và đi làm công việc của chúng ta?

– Ðó là cách ta phải làm. Họ bảo nhau.

Và họ đồng ý chuẩn bị lâm viên sẵn sàng, rồi vào rừng rào một khoảng rộng, mỗi bề một dặm. Lúc ấy Nandiya đã đem cha mẹ vào một bụi cây nhỏ và nằm xuống đất. Dân chúng cầm khiêng mộc, vũ khí bao vây bụi rậm kề sát nhau, một vài người bước vào tìm. Nai Nandiya thấy họ liền nghĩ: “Thật tốt là ta sẽ hy sinh tính mạng mình hôm nay để cứu cha mẹ”. Như thế, nai đứng dậy chào cha mẹ và nói:

– Thưa cha mẹ, đám người này sẽ trông thấy cả ba chúng ta nếu họ vào trong bụi, cha mẹ chỉ có thể sống sót được bằng một cách duy nhất, và mạng sống cha mẹ là tối thượng: con sẽ hy sinh tính mạng của con vì cha mẹ, bằng cách đứng bên bờ bụi cây và chạy ra ngay khi họ đập vào bụi, sau đó họ sẽ nghĩ rằng chỉ có một con nai nhỏ trong bụi nhỏ này thôi, và sẽ không bước vào trong. Vậy cha mẹ hãy cố hết sức thận trọng.

Thế là nai xin được phép đứng lên sẵn sàng chạy ra.

Ngay khi bụi cây bị đám người đứng bên ngoài bờ đập mạnh và la hét, nai vụt chạy ra nên họ nghĩ rằng chỉ có một con nai trong ấy và không bước vào trong. Nandiya cùng đi với đám nai kia, được đám người ấy xua vào trong lâm viên, rồi họ đóng cổng lại và trình lên đức vua xong xuôi, họ trở về nhà.

Từ đấy, bao giờ vua cũng tự mình đi bắn nai, rồi hoặc vua mang nai về, hoặc truyền người đi tìm nó mang về.

Bầy nai chuẩn bị chờ đến phiên mình, con nào đến phiên phải đứng sang một bên, rồi họ mang nó đi khi nó đã bị bắn chết. Nandiya cứ uống nước trong hồ và ăn cỏ, nhưng chưa đến phiên mình. Nhiều ngày sau cha mẹ ngài mong muốn gặp con. Liền nghĩ: “Con ta Nandiya là Lộc vương, mạnh khỏe như voi và hoàn toàn tráng kiện. Nếu còn sống chắc chắn nó sẽ nhảy rào về thăm chúng ta rồi”. Vì thế hai vị đứng bên vệ đường, vừa thấy một Bà-la-môn, liền hỏi bằng giọng người:

– Thưa Tôn giả, ngài đi đâu thế?

– Ði Sāketa. Vị ấy đáp.

Nghe vậy, hai vị muốn nhắn đôi lời cho con bèn ngâm vần kệ đầu:

“Hỡi này, Bà-la-môn,
Nếu đến Añjanā,
Ở thành Sāketa,
Nhắn với con chúng tôi,
Là Nandiya rằng:
‘Cha, Mẹ ngươi đã già,
Mong muốn gặp lại ngươi.’”
“Sace brāhmaṇa gacchesi,
sākete ajjunaṁ vanaṁ;
Vajjāsi nandiyaṁ nāma,
puttaṁ asmākamorasaṁ;
Mātā pitā ca te vuddhā,
te taṁ icchanti passituṁ”.

Vị Bà-la-môn bảo:

– Ðược lắm.

Và ông nhận lời.

Ngày hôm sau ông đi đến Sāketa, vào vườn ngự uyển và hỏi lớn:

– Nai nào là Nandiya?

Nai chúa đến gần ông và bảo:

– Ta đây.

Vị Bà-la-môn nói lại lời nhắn kia, Nandiya nghe vậy đáp.:

– Này Bà-la-môn, ta có thể ra đi. Chắc chắn ta có thể nhảy rào trốn đi. Song ta đã thọ hưởng thức ăn nước uống đầy đủ của đức vua và việc ấy đối với ta như một món nợ. Ngoài ra, ta đã sống lâu nay với bầy nai này, thật không hợp lý nếu ta ra đi mà không làm ích lợi cho đức vua và bầy nai nữa, hoặc không chứng tỏ sức mạnh của ta. Vậy khi nào đến phiên ta, ta sẽ làm lợi ích cho cả người lẫn vật rồi an vui trở về.

Ðể giải thích điều này, ngài ngâm hai vần kệ:

“Hỡi này, Bà-la-môn,
Tôi ăn uống của Vua,
Không thể thọ dùng không,
Mà không đem lợi ích.”
“Bhuttā mayā nivāpāni,
Rājino pānabhojanaṁ;
Taṁ rājapiṇḍaṁ avabhottuṁ,
Nāhaṁ brāhmaṇa mussahe”.

“Trước cung tên của Vua,
Ta giơ sườn ra đợi,
Khi ấy được tự do,
Sẽ về thăm Cha, Mẹ.
“Odahissāmahaṁ passaṁ,
khurappānissa rājino;
Tadāhaṁ sukhito mutto,
api passeyya mātaraṁ.

Vị Bà-la-môn nghe lời này liền bỏ đi.

Sau đó, vào ngày đến lượt nai chúa, vua cùng đoàn tùy tùng đông đảo vào vườn ngự uyển. Bồ-tát đứng sang một bên. Vua bảo:

– Ta sẽ bắn nai này.

Và vua lắp một mũi tên nhọn vào dây cung. Bồ-tát chẳng bỏ chạy như các con nai khác khi sợ chết, mà lòng đầy can đảm và lấy từ ái làm kim chỉ nam. Ngài đứng yên phô bày bộ xương sườn thật cường tráng.

Do động lực của từ tâm ấy, vua không thể thả mũi tên ra. Bồ-tát bảo:

– Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương không bắn? Xin hãy bắn đi.

– Này Lộc vương, trẫm không thể bắn được.

– Tâu Ðại vương, thế thì xin hãy xem các công đức của người giữ giới hạnh.

Sau đó vua hoan hỷ với lời của Bồ-tát, liền thả cung xuống và bảo:

– Khúc gỗ vô tri giác này không biết đức độ của Nai chúa, chứ trẫm là người có tri giác lẽ nào không hiểu? Hãy tha thứ cho trẫm, nay trẫm cho Nai chúa được bình an.

– Tâu Ðại vương, ngài cho ta được bình an, song còn cả đàn nai trong ngự viên này thì sao?

– Trẫm cũug sẽ cho chúng bình an nữa.

Như vậy sau khi tạo được bình an cho tất cả bầy nai trong lâm viên, chim muông trên trời và bầy cá dưới nước, theo cách được miêu tả trong Tiền thân Nigrodhamiga (số 12), Bồ-tát làm vua an trú vào Ngũ giới và bảo:

– Tâu Ðại vương, tốt lành thay cho một đức vua cai trị quốc độ bằng cách từ bỏ mọi ác đạo, không xâm phạm Thập vương pháp (Mười đức tính của vị vua) và hành động chân chánh:

Bố thí, nhân từ, đức hạnh, công bình,
Thân ái, nhu mì, ôn hòa, nhẫn nhục,
Ăn năn, bi mẫn, là mười giới đức

Ta thấy luôn vững chắc ở trong tâm.
Từ đó khởi sinh cả một từ ân
Thật hoàn thiện và nội thân an lạc.

Cùng với những lời này, ngài nêu rõ mọi đức tính của một vị vua hiền qua hình thức một lời kệ.

Sau vài ngày ở lại cùng nhà vua, ngài ra lệnh truyền một chiếc trống bằng vàng đi khắp kinh thành, công bố lời hứa bình an cho mọi loài. Sau đó ngài bảo:

– Xin Ðại vương hãy cẩn trọng hộ phòng.

Rồi ngài ra về thăm cha mẹ.

*

Ta là con Nai Chúa,
Ở Niketava,
Trong xứ Kosala,
Tên là Nandiya,
Loài bốn chân xinh đẹp.
Migarājā pure āsiṁ,
kosalassa niketane;
Nandiyo nāma nāmena,
abhirūpo catuppado.

Vua xứ Kosala,
Đến vườn Nai giết ta,
Ở rừng Añjanā,
Vua giơ Cung lên bắn.
Taṁ maṁ vadhitumāgacchi,
dāyasmiṁ ajjune vane;
Dhanuṁ advejjhaṁ katvāna,
usuṁ sannayha kosalo.

Ta phơi sườn ra đợi,
Phía trước mũi tên Vua,
Khi ấy được tự do,
Ta về thăm Cha, Mẹ.”
Tassāhaṁ odahiṁ passaṁ,
khurappānissa rājino;
Tadāhaṁ sukhito mutto,
mātaraṁ daṭṭhumāgato”ti.

Nandiyamigarājajātakaṁ dasamaṁ.

Ðây là những vần kệ phát sinh từ Trí tuệ Tối thắng (của đức Phật).

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc các Sự Thật kết thúc, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, song thân là phụ vương và mẫu hậu trong hoàng gia, vị Bà-la-môn là Sāriputta, vua là Ānanda và ta chính là Lộc vương.

Avāriyavaggo paṭhamo.

Tassuddānaṁ

Atha kujjharathesabha ketuvaro,
Sadarīmukha neru latā ca puna;
Apananda sirī ca sucittavaro,
Atha dhammika nandimigena dasāti.