WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Ja 354 Chuyện Con Rắn

Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka

Chương Năm
Pañcakanipāta

Phẩm Bông Tai Ngọc
Maṇikuṇḍalavagga

Ja 354 Uragajātaka

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một chủ đất có con trai chết.

Câu chuyện dẫn đầu cũng giống như chuyện của người đàn ông mất cả vợ và cha. Ở đây cũng vậy, bằng cách ấy, bậc Ðạo Sư đến nhà ông và sau khi chào ông, Ngài ngồi xuống và bảo:

– Này, thí chủ, ông đang sầu khổ đấy ư?

Và ông đáp:

– Bạch Ngài, vâng, từ khi con trai của con chết, con rất đau khổ.

Ngài dạy:

– Này thí chủ, quả thật, cái gì phải tan rã thì tan rã, và cái gì bị hủy diệt thì hủy diệt; điều ấy không chỉ xảy ra cho một người, không chỉ xảy ra ở trong một làng mà ở trong vô số cảnh vật, và trong ba cách hữu sinh tam giới, không có sinh vật nào không chết, không có sự vật hiện hữu nào có thể ở mãi trong cùng một hoàn cảnh được. Mọi chúng sinh đều phải chết, mọi kết hợp đều phải tan rã. Khi bị mất một đứa con, các bậc hiền trí ngày xưa bảo. Cái gì phải hủy diệt thì bị hủy diệt, và họ không sầu khổ.

Rồi do lời yêu cầu của người ấy. Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở một ngôi làng phía ngoài cổng thành Ba-la-nại và ngài nuôi sống gia đình bằng nghề cày ruộng. Ngài có hai con: một trai và một gái. Khi con trai lớn lên, ngài cưới vợ cho anh ta từ một gia đình cùng đẳng cấp với ngài. Như thế cùng với một nữ tỳ, họ hợp thành một gia đình sáu người: Bồ-tát và vợ ngài, con trai và con gái, con dâu và nữ tỳ. Họ sống với nhau đầy tình thương và hạnh phúc. Bồ-tát khuyên dạy năm người kia:

– Tùy theo những thứ mà các người nhận vào, phải bố thí, hành trì các ngày trai giới, giữ gìn đức hạnh, sống với ý nghĩ về cái chết, chú ý đến tình trạng phải chết của con người. Trong hoàn cảnh của chúng sinh như chúng ta đây, cái chết là chắc chắn, cuộc sống không chắc chắn, tất cả sự vật hiện hữu đều là tạm bợ và phải chịu suy tàn. Do đó ngày đêm phải chú ý đến lối sống của các người.

Mọi người đều nhận lãnh lời dạy của Bồ-tát và nghiêm túc sống với ý nghĩ về cái chết.

Một hôm, Bồ-tát cùng con trai đi cày ruộng. Người con nhặt cỏ rác rồi đốt. Cách đó không xa, có một con rắn sống trong một cái đụn kiến. Bị khói làm xốn mắt, con rắn giận dữ bò ra khỏi hang và nghĩ: “Tất cả chuyện này là do tên ấy” và nó phóng tới cắn vào anh ta bằng bốn cái răng cửa của nó. Người thanh niên ngã xuống chết.

Khi thấy anh ngã xuống, Bồ-tát rời mấy con bò chạy tới, và thấy rằng anh ta đã chết, ngài ẵm lên và đặt anh nằm dưới gốc cây nọ. Ngài lấy áo choàng phủ lên anh, không hề khóc lóc sầu đau. Ngài bảo:

– Cái gì phải tan rã thì tan rã, cái gì phải chết thì chết. Tất cả những hiện hữu kết hợp đều tạm bợ và phải chết.

Biết được tính chất tạm bợ của sự vật, ngài tiếp tục việc cày bừa. Trông thấy một người hàng xóm đi qua gần đám ruộng, ngài hỏi:

– Này bạn, có phải bạn đang về nhà đấy không?

Người ấy trả lời:

– Vâng.

Ngài bảo:

– Nhờ bạn đến nhà chúng tôi và nói với bà chủ, hôm nay không phải đem đồ ăn cho hai người như trước, mà chỉ đem cho một người thôi. Và mọi khi chỉ một mình nữ tỳ mang thức ăn đến, thì hôm nay cả bốn người trong nhà phải mặc quần áo sạch sẽ và mang hương hoa đến đây.

– Ðược rồi.

Người ấy đáp và đi nói đúng các lời trên với vợ của vị Bà-la-môn ấy.

Bà hỏi:

– Này bác, ai nhắn tin này thế?

Người ấy đáp:

– Thưa bà, ông Bà-la-môn đấy.

Thế là bà hiểu rằng con trai bà đã chết. Nhưng bà không run sợ, bà sai soạn thức ăn rồi cùng với những người khác trong gia đình ra đồng. Nhưng không ai, kể cả bà, nhỏ một giọt nước mắt hay than van. Khi Bồ-tát dùng bữa xong, mọi người chất củi và nâng xác để lên giàn hỏa táng, họ dâng hương, hoa rồi châm lửa thiêu. Chẳng ai nhỏ một giọt nước mắt. Tất cả đều an trú vào ý nghĩ về cái chết.

Hiệu lực đức hạnh của họ làm cho ngai của Thiên chủ Ðế Thích nóng lên. Ðế Thích tự bảo:

– Ủa, kẻ nào muốn hạ ta xuống khỏi ngai thế này?

Thiên chủ suy tưởng và phát hiện rằng hơi nóng này là do mãnh lực đức hạnh hiện hữu trong những người ấy. Rất sung sướng, Thiên chủ nói:

– Ta phải đến nơi họ và vui mừng la lớn như tiếng rống của sư tử rồi ngay sau đó sẽ lấy thất bảo đổ đầy chỗ của họ.

Thiên chủ vội vàng đến đó và đứng bên giàn hỏa táng nói:

– Các ngươi đang làm gì thế?

– Thưa ngài, chúng tôi đang thiêu xác của một người.

Thiên chủ nói:

– Không phải các ngươi đang thiêu một người, có lẽ các người đang quay thịt một con vật nào đó mà các người đã giết.

Họ đáp:

– Không phải thế đâu, thưa ngài, đúng là chúng tôi đang thiêu xác của một người.

Thế rồi Thiên chủ nói:

– Vậy chắc hẳn là một kẻ thù nào đấy.

Bồ-tát đáp:

– Ðấy chính là con trai ruột của chúng tôi, chứ không phải kẻ thù nào cả.

– Thế thì hẳn anh ta không được ông yêu mến.

– Tôi rất yêu mến nó, thưa ngài.

– Thế tại sao ông không khóc?

Rồi để giải thích lý do tại sao ngài không khóc, Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

“Như Rắn già lột da,
Ra đi bỏ lại vỏ,
Cũng vậy, người đã khuất,
Chỉ còn lại xác thân.
“Uragova tacaṁ jiṇṇaṁ,
hitvā gacchati saṁ tanuṁ;
Evaṁ sarīre nibbhoge,
pete kālaṅkate sati.

Người đang bị hỏa táng,
Thân quyến khóc nào hay,
Do vậy, tôi không sầu,
Người ấy đã tái sanh.”
Ḍayhamāno na jānāti,
ñātīnaṁ paridevitaṁ;
Tasmā etaṁ na socāmi,
gato so tassa yā gati”.

Nghe xong những lời của Bồ-tát, Ðế Thích hỏi bà vợ của ngài:

– Thưa bà, người chết liên hệ thế nào với bà?

– Tôi mang nó mười tháng trong bào thai, cho nó bú sữa của tôi, dạy cho nó cử động tay chân, đi đứng và thưa ngài nó là đứa con trưởng thành của tôi đấy.

– Thưa bà, do bản tính đàn ông, một người cha không khóc là phải, nhưng trái tim một người mẹ chắc chắn là mềm yếu. Thế sao bà lại không khóc?

Bà đọc hai bài kệ để giải thích vì sau bà không khóc:

“Nó tự đến không gọi,
Rời đi cũng không xin,
Đến sao ra đi vậy,
Than vãn lợi ích gì?
“Anavhito tato āgā,
ananuññāto ito gato;
Yathāgato tathā gato,
tattha kā paridevanā.

Người đang bị hỏa táng,
Thân quyến khóc nào hay,
Do vậy, tôi không sầu,
Người ấy đã tái sanh.”
Ḍayhamāno na jānāti,
ñātīnaṁ paridevitaṁ;
Tasmā etaṁ na socāmi,
gato so tassa yā gati”.

Nghe xong những lời của vợ Bồ-tát, Ðế Thích hỏi cô em gái:

– Thưa cô, người chết là gì của cô?

– Thưa ngài, anh ấy là anh tôi.

– Thưa cô, chị em gái chắc chắn thương yêu anh em trai. Tại sao cô lại không khóc?

Ðể giải thích lý do tại sao mình không khóc, cô ta đọc hai bài kệ:

“Sầu khóc, thân tiều tụy,
Có ích gì cho tôi,
Do vậy, tôi không sầu,
Người ấy đã tái sanh.
“Sace rode kisā assaṁ,
tassā me kiṁ phalaṁ siyā;
Ñātimittasuhajjānaṁ,
bhiyyo no aratī siyā.

Người đang bị hỏa táng,
Thân quyến khóc nào hay,
Do vậy, tôi không sầu,
Người ấy đã tái sanh.”
Ḍayhamāno na jānāti,
ñātīnaṁ paridevitaṁ;
Tasmā etaṁ na socāmi,
gato so tassa yā gati”.

Nghe xong những lời của cô em gái, Ðế Thích hỏi cô vợ:

– Thưa cô, anh ta là gì của cô?

– Thưa ngài, anh ấy là chồng của tôi.

– Khi chồng chết, các bà là những góa phụ bơ vơ. Tại sao cô không khóc?

Ðể giải thích lý do tại sao mình không khóc, cô ta đọc hai bài kệ:

“Trẻ khóc, đòi mặt Trăng,
Sầu thương người quá vãng,
Có khác gì nhau đâu.
“Yathāpi dārako candaṁ,
gacchantamanurodati;
Evaṁsampadamevetaṁ,
yo petamanusocati.

Người đang bị hỏa táng,
Thân quyến khóc nào hay,
Do vậy, tôi không sầu,
Người ấy đã tái sanh.”
Ḍayhamāno na jānāti,
ñātīnaṁ paridevitaṁ;
Tasmā etaṁ na socāmi,
gato so tassa yā gati”.

Nghe xong những lời của cô vợ, Thần Ðế Thích hỏi người nữ tỳ:

– Này bà, anh ấy là gì của bà?

– Thưa ngài, ông ấy là chủ của tôi.

– Chắc chắn rằng bà phải bị anh ta la mắng, đánh đập, áp bức, do đó bà nghĩ rằng may quá anh ta đã chết nên bà không khóc.

– Thưa ngài, chớ nói như thế. Cậu ấy không phải thế đâu. Cậu chủ tôi rất chịu đựng, yêu mến và thương xót tôi, cậu ấy cũng như con nuôi của tôi vậy.

– Thế thì tại sao bà không khóc?

Và để giải thích tại sao mình không khóc, người nữ tỳ đọc hai bài kệ:

“Bình vỡ, không thể ráp,
Sầu thương người quá vãng,
Có khác gì nhau đâu.
“Yathāpi udakakumbho,
bhinno appaṭisandhiyo;
Evaṁsampadamevetaṁ,
yo petamanusocati.

Người đang bị hỏa táng,
Thân quyến khóc nào hay,
Do vậy, tôi không sầu,
Người ấy đã tái sanh.”
Ḍayhamāno na jānāti,
ñātīnaṁ paridevitaṁ;
Tasmā etaṁ na socāmi,
gato so tassa yā gatī”ti.

Uragajātakaṁ catutthaṁ.

Sau khi nghe tất cả mọi người nói, Ðế Thích rất thích thú liền nói:

– Các ngươi đã thận trọng sống với ý nghĩ cái chết. Từ nay các ngươi khỏi phải tự tay cày bừa nữa. Ta là Ðế Thích, vua cõi trời. Ta sẽ tạo ra vô số thất bảo trong nhà các ngươi. Hãy bố thí, giữ đạo đức, hành trì ngày trai giới, quan tâm đến cách sống.

Sau khi khuyến dụ họ, Thiên chủ tạo ra vô số của cải trong nhà họ rồi ra đi.

*

Sau khi thuyết pháp, bậc Ðạo Sư tuyên dạy Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, người chủ đất đắc quả Dự Lưu.

Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Khujjutarā là người nô tỳ, Uppalavannā là người con gái, Rāhula còn con trai, Khemā là người mẹ, còn Ta là người Bà-la-môn ấy.