Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka
Chương Năm
Pañcakanipāta
Phẩm Bông Tai Ngọc
Maṇikuṇḍalavagga
Ja 355 Ghaṭajātaka
Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ viên về một ông quan của vua Kosalā.
Câu chuyện khởi đầu giống chuyện đã kể. Nhưng ở đây, sau khi ban vinh dự lớn lao cho một ông quan, vua lại nghe lời sàm tấu và truyền bắt ông ta bỏ vào ngục. Khi nằm trong ngục, ông quan ấy nhập Dự Lưu. Sau đó vua biết được công đức của ông và thả ra. Ông mang một tràng hoa thơm và đến tham bái bậc Ðạo Sư, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống. Bậc Ðạo Sư hỏi xem có việc xấu nào đã xảy đến với ông không. Ông đáp:
– Bạch Thế Tôn có. Nhưng qua việc xấu ấy, việc tốt lại đến với con. Con đã nhập Dự Lưu.
Bậc Ðạo Sư dạy:
– Ðúng thế, không phải chỉ bấy giờ, các bậc hiền trí ngày xưa cũng được điều tốt từ điều xấu.
Rồi do yêu cầu của ông quan, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con của chánh hoàng hậu. Người ta gọi ngài là thái tử Ghata. Sau đó ngài đạt kiến thức về các học nghệ ở Takkasilà và trị vì vương quốc của ngài rất công chính.
Bấy giờ một ông quan nọ tỏ ra phẩm hạnh xấu trong nội cung. Sau khi tận mắt chứng kiến việc phạm gian, vua liền đuổi ông ra khỏi vương quốc. Lúc ấy, một vị vua tên là Vanka trị vì ở Xá-vệ. Ông quan đến phục vụ cho vua ấy đúng như câu chuyện trước đây số Ja 303, được vua nghe lời và xúi vua chiếm vương quốc Ba-la-nại.
Sau khi chiếm đoạt vương quốc này, vua ấy bắt trói Bồ-tát bằng dây xích và bỏ ngài vào ngục. Bồ-tát nhập định và ngồi tréo chân trên không. Vanka bị nóng hừng hực trong thân thể, liền chạy đến Bồ-tát, trông thấy dung mạo của ngài sáng ngời, đẹp như một hoa sen nở, giống như một tấm kính bằng vàng. Qua hình thức một lời hỏi, ông đọc bài kệ đầu:
“Người sầu muộn, khóc lóc,
Người mặt đẫm nước mắt,
Ngài có vẻ trầm tĩnh,
Ghata, sao không sầu?”
“Aññe socanti rodanti,
aññe assumukhā janā;
Pasannamukhavaṇṇosi,
kasmā ghaṭa na socasi”.
Ðể giải thích tại sao ngài không sầu khổ, Bồ-tát đọc các bài kệ sau đây:
“Chuyện cũ, sầu không đổi,
Lạc mới, sầu nào mang,
Dhaṃka, ta không sầu,
Sầu không phải là bạn.
“Nābbhatītaharo soko,
nānāgatasukhāvaho;
Tasmā dhaṅka na socāmi,
natthi soke dutīyatā.
Sầu ốm o, vàng vọt,
Thức ăn thật nhạt nhẽo,
Người trúng tên không vui,
Nhưng kẻ thù thích ý.
Socaṁ paṇḍu kiso hoti,
bhattañcassa na ruccati;
Amittā sumanā honti,
sallaviddhassa ruppato.
Dẫu ở làng, ở rừng,
Đất trũng hay đất bằng,
Điều ta biết rõ ràng,
Không sầu bất cứ đâu.
Gāme vā yadi vāraññe,
ninne vā yadi vā thale;
Ṭhitaṁ maṁ nāgamissati,
evaṁ diṭṭhapado ahaṁ.
Ai sống đời độc cư,
Hỷ lạc thiền không chứng,
Hạnh phúc trên cõi đời,
Không hề đủ cho họ.”
Yassattā nālamekova,
sabbakāmarasāharo;
Sabbāpi pathavī tassa,
na sukhaṁ āvahissatī”ti.
Ghaṭajātakaṁ pañcamaṁ.
Sau khi nghe xong bốn bài kệ ấy, Vanka xin Bồ-tát tha thứ và giao trả lại vương quốc cho ngài rồi đi theo đường mình. Nhưng Bồ-tát trao vương quốc cho các đại thần, ngài lui vào dãy Tuyết Sơn và trở thành một nhà tu khổ hạnh. Không hề ngưng thiền định, ngài được sinh vào cõi Phạm thiên.
*
Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
– Lúc bấy giờ Ānanda là vua Vanka, còn Ta là Ghata.