Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka
Chương Năm
Pañcakanipāta
Phẩm Sắc Đẹp
Vaṇṇārohavagga
Ja 362 Sīlavīmaṁsajātaka
Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Bà-la-môn muốn thử thách năng lực của đức hạnh.
Người ta kể rằng, do ông nổi danh về đức hạnh, vua đã đặc biệt tôn trọng ông hơn hẳn các Bà-la-môn khác. “Ðức vua đặc biệt tôn trọng ta, có phải vì ta có đức hạnh hay vì ta đạt kiến thức cao? Ta sẽ thử nghiệm xem đức hạnh và kiến thức bên nào quan trọng hơn”.
Thế là một hôm, ông rút lấy một đồng trong kho tiền của vua. Người thủ kho vì kính ông đã không nói một lời nào. Việc ấy lại xảy ra lần thứ hai, người thủ kho cũng chẳng nói gì. Nhưng đến lần thứ ba, người thủ kho bắt ông ta như bắt một kẻ sinh sống bằng nghề trộm cắp và mang ông ta đến trước nhà vua. Vua hỏi người thủ kho ông ta bị tội gì, người ấy buộc tội ông đã ăn trộm tài sản của vua.
– Này Bà-la-môn có thật thế không? Vua hỏi.
– Tâu Ðại vương, tôi không có thói ăn trộm của ngài – Ông ta bảo,- Nhưng tôi nghi ngờ không biết đức hạnh và kiến thức bên nào quan trọng hơn, và khi thử nghiệm xem trong hai thứ đó, thứ nào là quan trọng hơn, tôi đã ba lần rút lấy một đồng tiền và thế rồi tôi bị bắt và mang đến trước ngài. Giờ đây tôi biết được rằng đức hạnh có hiệu năng lớn hơn là kiến thức. Tôi không còn muốn sống đời cư sĩ nữa, tôi sẽ trở thành một ẩn sĩ.
Khi được vua cho phép, chẳng cần phải nhìn tới cả nhà cửa, ông đi thẳng đến Kỳ Viên và xin quy y bậc Ðạo Sư. Bậc Ðạo Sư truyền cho ông giới Sa-di và cả giới Tỷ-kheo. Ðược vào Giáo đoàn không bao lâu, ông đạt tuệ giác và đắc quả vị cao nhất. Sự việc này được bàn luận trong Pháp đường rằng Bà-la-môn nọ sau khi chứng nghiệm được năng lực của đức hạnh, đã thọ giới xuất gia và đạt tuệ giác đắc Thánh quả như thế nào.
Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-Kheo đang ngồi bàn luận vấn đề. Khi nghe kể lại, Ngài dạy:
– Không phải chỉ bây giờ người này làm thế, các bậc hiền trí ngày xưa cũng đã đem đức hạnh ra thử nghiệm và trở thành các ẩn sĩ đem lại sự giải thoát cho mình.
Rồi Ngài kể một câu chuyện ngày xưa.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài học được mọi ngành văn học nghệ thuật ở Takkasilā và khi trở về Ba-la-nại, ngài đến yết kiến vua. Vua giao cho ngài chức giáo sĩ hoàng gia, và vì ngài giữ năm giới, vua đối đãi kính trọng, xem ngài là người một đức hạnh. Ngài nghĩ: “Phải chăng vua kính trọng đối xử với ta như một người đức hạnh hay như một người chuyên tâm đạt kiến thức?” Và toàn bộ câu chuyện cũng đúng như sự việc ngày nay, nhưng ở đây, vị Bà-la-môn bảo:
– Bây giờ tôi đã biết đức hạnh là quan trọng hơn kiến thức.
Rồi ngài đọc năm bài kệ sau đây:
“Tôi đây, có ngờ vực,
Tài hay Đức cao hơn,
Giờ ngờ vực chẳng còn,
Đức muôn phần cao hơn.
“Sīlaṁ seyyo sutaṁ seyyo,
iti me saṁsayo ahu;
Sīlameva sutā seyyo,
iti me natthi saṁsayo.
Giới Đức là tối thắng,
Đẹp, sang chẳng đáng chi,
Người không thành tựu Giới,
Tài cán cũng như không.
Moghā jāti ca vaṇṇo ca,
sīlameva kiruttamaṁ;
Sīlena anupetassa,
sutenattho na vijjati.
Sát-đế-lỵ phi pháp,
Thương buôn hành phi pháp,
Kẻ ấy rơi đọa xứ,
Rời xa cõi Thiên Nhân.
Khattiyo ca adhammaṭṭho,
vesso cādhammanissito;
Te pariccajjubho loke,
upapajjanti duggatiṁ.
Sát-đế-lỵ, thương buôn,
Bà-la-môn, nô lệ,
Đời này có Giới Đức,
Thiên giới là ngang nhau.
Khattiyā brāhmaṇā vessā,
suddā caṇḍālapukkusā;
Idha dhammaṁ caritvāna,
bhavanti tidive samā.
Tài cán hay cao sang,
Thân quyến cũng chẳng đáng,
Chỉ riêng phần Giới Đức,
Cho phước lạc mai sau.”
Na vedā samparāyāya,
Na jāti nāpi bandhavā;
Sakañca sīlaṁ saṁsuddhaṁ,
Samparāyāya sukhāya cā”ti.
Sīlavīmaṁsajātakaṁ dutiyaṁ.
Bậc Ðại Sĩ ca ngợi đức hạnh như thế, và sau khi được vua ưng thuận, ngay ngày hôm ấy, ngài đi vào vùng Tuyết-Sơn và sống đời Phạm hạnh của một nhà ẩn tu. Ngài phát triển các Thắng trí và các Thiền chứng rồi được sinh vào cõi Phạm Thiên.
*
Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài dạy và nhận diện tiền thân:
– Bấy giờ chính Ta đã đem đức hạnh ra thử nghiệm và nhận lấy cuộc đời Phạm hạnh của một nhà ẩn tu.