WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Ja 372 Chuyện Nai Con

Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka

Chương Năm
Pañcakanipāta

Nửa Phẩm
Aḍḍhavagga

Ja 372 Migapotakajātaka

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Trưởng lão nọ.

Chuyện kể rằng ông nhận một cậu thanh niên xuất gia vào Hội chúng, và Sa-di này sau một thời gian phục vụ thầy rất nhiệt tình, dần dần lâm bệnh và từ trần. Vị Trưởng lão tràn ngập ưu phiền vì cái chết của nam tử kia nên cứ đi quanh quẩn than khóc kêu gào. Tăng chúng không thể nào an ủi ông cho khuây khỏa được, liền đưa vấn đề ra thảo luận tại Chánh pháp Ðường:

– Vị Trưởng lão kia có một Sa-di từ trần, cứ quanh quẩn than khóc mãi. Do triền miên suy tư mãi về cái chết, chắc chắn vị ấy sẽ trở thành kẻ bơ vơ lạc lỏng.

Khi bậc Ðạo Sư bước vào, Ngài hỏi Tăng chúng hội họp để bàn luận đề tài gì, và khi biết được câu chuyện, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa, Trưởng lão ấy cũng đi quanh quẩn than khóc khi thanh niên này từ trần.

Nói xong Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta (Phạm Thọ) trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Sakka Thiên chủ (Ðế Thích). Thời ấy có một người sống trong quốc độ Kāsi, đi đến miền Himālaya (Tuyết Sơn) và sống đời khổ hạnh với các loại quả rừng.

Một hôm vị ấy thấy một chú nai con mất mẹ. Vị ấy đem nó về thảo am, cho nó ăn và yêu quý nâng niu nó. Chú nai con lớn dần thành một con vật xinh đẹp thanh tao, và ẩn sĩ chăm sóc nó, đối đãi với nó như con đẻ mình vậy.

Một ngày kia, con nai chết thình lình vì bội thực, không tiêu hóa hết số cỏ quá nhiều. Vị khổ hạnh cứ lang thang gào khóc:

– Con ta chết rồi!

Lúc ấy Sakka Thiên chủ xem xét trần gian, nhìn thấy vị ấy, ngài nghĩ cách khuyến giáo ông, liền hiện xuống đứng giữa không trung và ngâm vần kệ đầu:

“Ông sống đời độc cư,
Thiện nhân, sống không nhà,
Sa-môn sầu người chết,
Với ông là chẳng tốt.”
“Agārā paccupetassa,
anagārassa te sato;
Samaṇassa na taṁ sādhu,
yaṁ petamanusocasi”.

Vị khổ hạnh vừa nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ hai:

“Thưa thiên chủ Sakka,
Sống với người hay thú,
Tâm sanh khởi yêu thương,
Chắc chắn sầu vì chúng.”
“Saṁvāsena have sakka,
manussassa migassa vā;
Hadaye jāyate pemaṁ,
na taṁ sakkā asocituṁ”.

Thiên chủ Sakka lại ngâm hai vần kệ nữa:

“Ai khóc than người chết,
Sẽ khóc mãi, tiếc thương,
Ẩn sĩ, chớ khóc lóc,
Bậc hiền trí khuyên rằng,
Khóc lóc là vô ích.
“Mataṁ marissaṁ rodanti,
ye rudanti lapanti ca;
Tasmā tvaṁ isi mā rodi,
roditaṁ moghamāhu santo.

Hỡi này, Bà-la-môn,
Nếu người chết sống lại,
Do khóc lóc, tiếc thương,
Hãy hội tụ, khóc lóc,
Cho thân quyến mọi người.”
Roditena have brahme,
mato peto samuṭṭhahe;
Sabbe saṅgamma rodāma,
aññamaññassa ñātake”.

Trong lúc Thiên chủ Sakka nói vậy, vị khổ hạnh nhận ra rằng khóc than cũng chẳng ích gì, liền ca ngợi tán thán Thiên chủ và ngâm ba vần kệ nữa:

“Quả thật, tôi bị đốt,
Như ngọn lửa rưới bơ,
Ngài dập tắt nỗi sầu,
Như đang rưới nước xuống.
“Ādittaṁ vata maṁ santaṁ,
ghatasittaṁva pāvakaṁ;
Vārinā viya osiñcaṁ,
sabbaṁ nibbāpaye daraṁ.

Sầu muộn chế ngự tôi,
Ai xua tan sầu muộn,
Nỗi buồn mất con trai,
Nhổ mũi tên khỏi tim.
Abbahi vata me sallaṁ,
yamāsi hadayassitaṁ;
Yo me sokaparetassa,
puttasokaṁ apānudi.

Mũi tên được nhổ ra,
Sầu muộn cũng chấm dứt,
Thiên Chủ, lắng nghe Ngài,
Tôi không sầu, không khóc.”
Sohaṁ abbūḷhasallosmi,
vītasoko anāvilo;
Na socāmi na rodāmi,
tava sutvāna vāsavā”ti.

Migapotakajātakaṁ dutiyaṁ.

Sau khi đã khuyến giáo vị khổ hạnh như thế, Sakka Thiên chủ trở về cõi của ngài.

*

Ðến đây bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vị Trưởng lão là nhà khổ hạnh, Sa-di là con nai, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.