Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka
Chương Ba
Tikanipāta
Phẩm Bình Nước
Kumbhavagga
Ja 299 Komāraputtajātaka
Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Pubbārāma (Ðông Viên), về một số Tỷ-kheo có tư cách thô lỗ cộc cằn.
Các Tỷ-kheo này ở tầng bên dưới phòng của bậc Ðạo Sư. Họ cứ đem bàn tán những gì nghe thấy được rồi cãi cọ mắng nhiếc nhau. Bậc Ðạo Sư gọi Trưởng lão Moggallāna (Mục-kiền-liên) đến và sai đi làm cho họ biết kinh hãi. Trưởng lão bay lên trên không rồi chạm vào nền nhà bằng ngón chân to cái của trưởng lão làm rung động tới cả bờ xa nhất của đại dương. Các Tỷ-kheo ấy sợ chết, vội chạy cả ra ngoài.
Các Tỷ-kheo bắt đầu biết tư cách thô lỗ của những kẻ ấy, một hôm đem ra bàn trong Pháp đường:
– Này Hiền hữu, có một số Tỷ-kheo đã ẩn cư vào ngôi nhà cứu độ này, lại là những kẻ thô lỗ cộc cằn; họ không thấy sự vô thường, khổ và vô ngã của cuộc đời và cũng chẳng làm bổn phận của họ.
Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn tán việc gì. Nghe thuật chuyện ấy, Ngài dạy:
– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên họ thô lỗ cộc cằn. Trước kia họ cũng đã như thế.
Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con trai của một Bà-la-môn trong một ngôi làng kia. Người ta gọi tên ngài là Komāraputta. Ít lâu sau, ngài bỏ nhà đi tu tập trong dãy Hy-mã-lạp Sơn (Tuyết Sơn). Có mấy vị khổ hạnh hời hợt đã làm am ẩn dật tại vùng ấy, nhưng họ chẳng dùng phương tiện để phát khởi Thiền định. Họ kiếm trái cây trong rừng để ăn rồi suốt ngày cứ cười đùa chọc ghẹo nhau. Họ có một con Khỉ cung cách cũng thô lỗ như họ, cứ mãi làm cho họ vui bằng cách nhăn mặt và nhảy nhót nhào lộn.
Sau một thời gian dài sống nơi ấy, họ lại đến với dân làng để kiếm muối và các đồ gia vị. Khi họ đi rồi, Bồ-tát đến sống ở trú xứ của họ. Con Khỉ lại diễn các trò đùa cho ngài vui như với những người kia. Bồ-tát búng tay chế nhạo nó và cho nó một bài học:
– Kẻ nào sống với những vị khổ hạnh tinh tấn tu tập thì phải có phẩm cách thích hợp, phải có thiện ý trong hành động và phải chuyên tâm quán tưởng.
Sau đó con Khỉ luôn giữ phẩm hạnh tốt và cư xử đúng đắn.
Thế rồi Bồ-tát ra đi. Các vị khổ hạnh kia lại trở về mang theo muối và các đồ gia vị. Nhưng con Khỉ không còn diễn trò đùa cợt nữa. Họ hỏi:
– Sao thế anh bạn? Sao bạn lại không chơi đùa như bạn vẫn thường làm?
Một người trong bọn đọc bài kệ thứ nhất:
“Trước đây, ngươi nghịch phá,
Nơi ẩn sĩ ẩn cư,
Giới hạnh ta không thích,
Khỉ ơi, làm trò đi.”
“Pure tuvaṁ sīlavataṁ sakāse,
Okkantikaṁ kīḷasi assamamhi;
Karohare makkaṭiyāni makkaṭa,
Na taṁ mayaṁ sīlavataṁ ramāma”.
Nghe thế, Khỉ đọc bài kệ thứ hai:
“Komāraputta,
Bậc thanh tịnh, đa văn,
Ta chẳng giống trước kia,
Hiền giả! Hãy tham thiền.”
“Sutā hi mayhaṁ paramā visuddhi,
Komāraputtassa bahussutassa;
Mā dāni maṁ maññi tuvaṁ yathā pure,
Jhānānuyutto viharāmi āvuso”.
Thế rồi người ẩn sĩ đọc bài kệ thứ ba:
“Nếu hột gieo trên đá,
Dầu trời đổ cơn mưa,
Hột ấy không thể mọc,
Điều thanh tịnh đã nghe,
Ngươi vẫn xa thiền chứng.”
“Sacepi selasmi vapeyya bījaṁ,
Devo ca vasse na hi taṁ virūḷhe;
Sutā hi te sā paramā visuddhi,
Ārā tuvaṁ makkaṭa jhānabhūmiyā”ti.
Komāraputtajātakaṁ navamaṁ.
*
Khi kể xong Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế và nhận diện Tiền thân:
– Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo này là các ẩn sĩ hời hợt kia, còn Komāraputta chính là Ta.