WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

MN 82 Kinh Raṭṭhapāla

Kinh Trung Bộ 82
Majjhima Nikāya 82

Kinh Raṭṭhapāla
Raṭṭhapālasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời Thế Tôn du hành ở giữa dân chúng Kuru, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đi đến một thị trấn của dân chúng Kuru tên là Thullakoṭṭhika.
ekaṁ samayaṁ bhagavā kurūsu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ yena thullakoṭṭhikaṁ nāma kurūnaṁ nigamo tadavasari.

Các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakoṭṭhika được nghe như sau:
Assosuṁ kho thullakoṭṭhikā brāhmaṇagahapatikā:

“Sa-môn Gotama là Thích tử, Tôn giả xuất gia từ dòng họ Sakya, du hành giữa dân chúng Kuru nay đã đến Thullakoṭṭhika với đại chúng Tỷ-kheo.
“samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito kurūsu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ thullakoṭṭhikaṁ anuppatto.

Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được nói lên về Tôn giả Gotama:
Taṁ kho pana bhavantaṁ gotamaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

‘Ðây là đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn’.
‘itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṁ buddho bhagavā’ti.

Ngài với thắng trí tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và Người.
So imaṁ lokaṁ sadevakaṁ samārakaṁ sabrahmakaṁ sassamaṇabrāhmaṇiṁ pajaṁ sadevamanussaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedeti.

Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên bố sự chứng ngộ ấy cho người khác. Ngài thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, và giới thiệu đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch”.
So dhammaṁ deseti ādikalyāṇaṁ majjhekalyāṇaṁ pariyosānakalyāṇaṁ sātthaṁ sabyañjanaṁ, kevalaparipuṇṇaṁ parisuddhaṁ brahmacariyaṁ pakāseti.

Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy”.
Sādhu kho pana tathārūpānaṁ arahataṁ dassanaṁ hotī”ti.

Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakoṭṭhika đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, một số người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Một số người nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, và sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Một số người chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Một số người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên. Một số người yên lặng ngồi xuống một bên.
Atha kho thullakoṭṭhikā brāhmaṇagahapatikā yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā appekacce bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu; appekacce bhagavatā saddhiṁ sammodiṁsu, sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdiṁsu; appekacce yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu; appekacce bhagavato santike nāmagottaṁ sāvetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu; appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṁ nisīdiṁsu.

Rồi Thế Tôn với pháp thoại khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakoṭṭhika đang ngồi một bên.
Ekamantaṁ nisinne kho thullakoṭṭhike brāhmaṇagahapatike bhagavā dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṁsesi.

Lúc bấy giờ, một thiện nam tử tên là Raṭṭhapāla, con trai một gia đình thượng tộc ở chính tại Thullakoṭṭhika ấy, đang ngồi trong hội chúng này.
Tena kho pana samayena raṭṭhapālo nāma kulaputto tasmiṁyeva thullakoṭṭhike aggakulassa putto tissaṁ parisāyaṁ nisinno hoti.

Rồi thiện nam tử Raṭṭhapāla suy nghĩ như sau:
Atha kho raṭṭhapālassa kulaputtassa etadahosi:

“Như ta được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc.
“yathā yathā khvāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi, nayidaṁ sukaraṁ agāraṁ ajjhāvasatā ekantaparipuṇṇaṁ ekantaparisuddhaṁ saṅkhalikhitaṁ brahmacariyaṁ carituṁ.

Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”.
Yannūnāhaṁ kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajeyyan”ti.

Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakoṭṭhika, sau khi được Thế Tôn với pháp thoại khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Atha kho thullakoṭṭhikā brāhmaṇagahapatikā bhagavatā dhammiyā kathāya sandassitā samādapitā samuttejitā sampahaṁsitā bhagavato bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkamiṁsu.

Thiện nam tử Raṭṭhapāla, sau khi các Bà-la-môn, gia chủ ra đi không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, thiện nam tử Raṭṭhapāla bạch Thế Tôn:
Atha kho raṭṭhapālo kulaputto acirapakkantesu thullakoṭṭhikesu brāhmaṇagahapatikesu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho raṭṭhapālo kulaputto bhagavantaṁ etadavoca:

Bạch Thế Tôn, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh, hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc.
“yathā yathāhaṁ, bhante, bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi, nayidaṁ sukaraṁ agāraṁ ajjhāvasatā ekantaparipuṇṇaṁ ekantaparisuddhaṁ saṅkhalikhitaṁ brahmacariyaṁ carituṁ.

Con muốn, bạch Thế Tôn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Icchāmahaṁ, bhante, kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajituṁ.

Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, cho con thọ đại giới.”
Labheyyāhaṁ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṁ, labheyyaṁ upasampadaṁ. Pabbājetu maṁ bhagavā”ti.

Nhưng này Raṭṭhapāla, Ông có được cha mẹ bằng lòng cho Ông xuất gia chưa?
“Anuññātosi pana tvaṁ, raṭṭhapāla, mātāpitūhi agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti?

Bạch Thế Tôn, con chưa được cha mẹ bằng lòng cho con xuất gia.
“Na khohaṁ, bhante, anuññāto mātāpitūhi agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti.

Này Raṭṭhapāla, Như Lai không có cho ai xuất gia nếu không được cha mẹ người ấy bằng lòng.
“Na kho, raṭṭhapāla, tathāgatā ananuññātaṁ mātāpitūhi puttaṁ pabbājentī”ti.

Như vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ làm những gì cần thiết để cha mẹ bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
“Svāhaṁ, bhante, tathā karissāmi yathā maṁ mātāpitaro anujānissanti agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti.

Rồi thiện nam tử Raṭṭhapāla từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi ra đi, đi đến cha mẹ, sau khi đến liền thưa với cha mẹ:
Atha kho raṭṭhapālo kulaputto uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā yena mātāpitaro tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā mātāpitaro etadavoca:

Thưa Mẹ và Cha, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc.
“ammatātā, yathā yathāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi, nayidaṁ sukaraṁ agāraṁ ajjhāvasatā ekantaparipuṇṇaṁ ekantaparisuddhaṁ saṅkhalikhitaṁ brahmacariyaṁ carituṁ.

Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Icchāmahaṁ kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajituṁ.

Hãy bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Anujānātha maṁ agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti.

Khi được nghe nói vậy, cha mẹ Thiên nam tử Raṭṭhapāla nói với thiện nam tử Raṭṭhapāla:
Evaṁ vutte, raṭṭhapālassa kulaputtassa mātāpitaro raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ etadavocuṁ:

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con là đứa con độc nhất của mẹ cha, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc.
“tvaṁ khosi, tāta raṭṭhapāla, amhākaṁ ekaputtako piyo manāpo sukhedhito sukhaparibhato.

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con không biết gì về đau khổ.
Na tvaṁ, tāta raṭṭhapāla, kassaci dukkhassa jānāsi.

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, hãy đến ăn, hãy uống và hãy ăn chơi. Ăn, uống, ăn chơi, con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con.
(…) Maraṇenapi te mayaṁ akāmakā vinā bhavissāma.

Huống nay con còn sống, chúng ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!”
Kiṁ pana mayaṁ taṁ jīvantaṁ anujānissāma agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti?

Lần thứ hai…
Dutiyampi kho raṭṭhapālo kulaputto …pe…

Lần thứ ba, thiện nam tử Raṭṭhapāla thưa với mẹ cha:
tatiyampi kho raṭṭhapālo kulaputto mātāpitaro etadavoca:

Thưa Mẹ và Cha, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh, hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
“ammatātā, yathā yathāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi, nayidaṁ sukaraṁ agāraṁ ajjhāvasatā ekantaparipuṇṇaṁ ekantaparisuddhaṁ saṅkhalikhitaṁ brahmacariyaṁ carituṁ.

Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Icchāmahaṁ kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajituṁ.

Hãy bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Anujānātha maṁ agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti.

Lần thứ ba, cha mẹ thiện nam tử Raṭṭhapāla nói với thiện nam tử Raṭṭhapāla:
Tatiyampi kho raṭṭhapālassa kulaputtassa mātāpitaro raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ etadavocuṁ:

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con là đứa con độc nhất của mẹ cha, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc.
“tvaṁ khosi, tāta raṭṭhapāla, amhākaṁ ekaputtako piyo manāpo sukhedhito sukhaparibhato.

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con không biết gì về đau khổ.
Na tvaṁ, tāta raṭṭhapāla, kassaci dukkhassa jānāsi.

Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con.
Maraṇenapi te mayaṁ akāmakā vinā bhavissāma.

Huống nay con còn sống, chúng ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!”
Kiṁ pana mayaṁ taṁ jīvantaṁ anujānissāma agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti?

Rồi thiện nam tử Raṭṭhapāla suy nghĩ:
Atha kho raṭṭhapālo kulaputto:

“Ta không được cha mẹ cho xuất gia”, liền ngay tại chỗ ấy nằm xuống trên đất trần và nói:
“na maṁ mātāpitaro anujānanti agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti tattheva anantarahitāya bhūmiyā nipajji:

“Ta sẽ chết ở đây, hay được xuất gia.”
“idheva me maraṇaṁ bhavissati pabbajjā vā”ti.

Sau đó, thiện nam tử Raṭṭhapāla tuyệt thực cho tới bảy ngày.
Atha kho raṭṭhapālo kulaputto ekampi bhattaṁ na bhuñji, dvepi bhattāni na bhuñji, tīṇipi bhattāni na bhuñji, cattāripi bhattāni na bhuñji, pañcapi bhattāni na bhuñji, chapi bhattāni na bhuñji, sattapi bhattāni na bhuñji.

Rồi cha mẹ thiện nam tử Raṭṭhapāla nói với thiện nam tử Raṭṭhapāla:
Atha kho raṭṭhapālassa kulaputtassa mātāpitaro raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ etadavocuṁ:

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con là đứa con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc.
“tvaṁ khosi, tāta raṭṭhapāla, amhākaṁ ekaputtako piyo manāpo sukhedhito sukhaparibhato.

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con không biết gì về đau khổ.
Na tvaṁ, tāta raṭṭhapāla, kassaci, dukkhassa jānāsi.

Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con.
Maraṇenapi te mayaṁ akāmakā vinā bhavissāma.

Huống nay con còn sống, chúng ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
Kiṁ pana mayaṁ taṁ jīvantaṁ anujānissāma agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya.

Hãy đứng dậy, này con thân yêu Raṭṭhapāla, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi.
Uṭṭhehi, tāta raṭṭhapāla, bhuñja ca piva ca paricārehi ca;

Ăn, uống, vui chơi, con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức.
bhuñjanto pivanto paricārento kāme paribhuñjanto puññāni karonto abhiramassu.

Chúng ta không bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Na taṁ mayaṁ anujānāma agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya.

Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con.
Maraṇenapi te mayaṁ akāmakā vinā bhavissāma.

huống nay con còn sống, chúng ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
Kiṁ pana mayaṁ taṁ jīvantaṁ anujānissāma agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti?

Khi được nghe nói vậy, thiện nam tử Raṭṭhapāla giữ im lặng.
Evaṁ vutte, raṭṭhapālo kulaputto tuṇhī ahosi.

Lần thứ hai … lần thứ hai, thiện nam tử Raṭṭhapāla giữ im lặng.
Dutiyampi kho raṭṭhapālassa kulaputtassa mātāpitaro raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ etadavocuṁ …pe… dutiyampi kho raṭṭhapālo kulaputto tuṇhī ahosi.

Lần thứ ba, cha mẹ thiện nam tử Raṭṭhapāla nói với thiện nam tử Raṭṭhapāla:
Tatiyampi kho raṭṭhapālassa kulaputtassa mātāpitaro raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ etadavocuṁ:

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con là đứa con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc.
“tvaṁ khosi, tāta raṭṭhapāla, amhākaṁ ekaputtako piyo manāpo sukhedhito sukhaparibhato.

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con không biết gì về đau khổ.
Na tvaṁ, tāta raṭṭhapāla, kassaci dukkhassa jānāsi.

Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con, huống nay con còn sống, chúng Ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
Maraṇenapi te mayaṁ akāmakā vinā bhavissāma, kiṁ pana mayaṁ taṁ jīvantaṁ anujānissāma agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya.

Hãy đứng dậy, này con thân yêu Raṭṭhapāla, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi.
Uṭṭhehi, tāta raṭṭhapāla, bhuñja ca piva ca paricārehi ca;

Ăn, uống, vui chơi, con có thể thụ hưởng cái ái dục và sung sướng làm các phước đức.
bhuñjanto pivanto paricārento kāme paribhuñjanto puññāni karonto abhiramassu.

Chúng ta không bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Na taṁ mayaṁ anujānāma agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya.

Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con,
Maraṇenapi te mayaṁ akāmakā vinā bhavissāma.

huống nay con còn sống, chúng Ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!”
Kiṁ pana mayaṁ taṁ jīvantaṁ anujānissāma agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti?

Lần thứ ba, thiện nam tử Raṭṭhapāla giữ im lặng. Rồi cha mẹ thiện nam tử Raṭṭhapāla liền đi đến các thân hữu của thiện nam tử Raṭṭhapāla để nhờ giúp đỡ.
Tatiyampi kho raṭṭhapālo kulaputto tuṇhī ahosi.

Những người bạn của thiện nam tử Raṭṭhapāla, nói với thiện nam tử Raṭṭhapāla:
Atha kho raṭṭhapālassa kulaputtassa sahāyakā yena raṭṭhapālo kulaputto tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ etadavocuṁ:

Này bạn Raṭṭhapāla, bạn là con độc nhất của cha mẹ bạn, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc.
“tvaṁ khosi, samma raṭṭhapāla, mātāpitūnaṁ ekaputtako piyo manāpo sukhedhito sukhaparibhato.

Này bạn Raṭṭhapāla, bạn không biết gì về đau khổ.
Na tvaṁ, samma raṭṭhapāla, kassaci dukkhassa jānāsi.

Nếu bạn có chết đi, cha mẹ bạn còn không muốn không có mặt bạn,
Maraṇenapi te mātāpitaro akāmakā vinā bhavissanti.

huống nay bạn còn sống, cha mẹ bạn lại bằng lòng cho bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
Kiṁ pana te taṁ jīvantaṁ anujānissanti agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya.

Hãy đứng dậy, bạn Raṭṭhapāla, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi.
Uṭṭhehi, samma raṭṭhapāla, bhuñja ca piva ca paricārehi ca;

Ăn, uống, vui chơi, bạn có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức.
bhuñjanto pivanto paricārento kāme paribhuñjanto puññāni karonto abhiramassu.

Cha mẹ bạn không bằng lòng cho phép bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Na taṁ mātāpitaro anujānissanti agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya.

Nếu bạn có chết đi, cha mẹ bạn còn không muốn không có mặt bạn,
Maraṇenapi te mātāpitaro akāmakā vinā bhavissanti.

huống nay bạn còn sống, cha mẹ bạn lại bằng lòng cho bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
Kiṁ pana te taṁ jīvantaṁ anujānissanti agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti?

Khi được nghe nói vậy, thiện nam tử Raṭṭhapāla giữ im lặng.
Evaṁ vutte, raṭṭhapālo kulaputto tuṇhī ahosi.

Lần thứ hai…
Dutiyampi kho …

Lần thứ ba, những người bạn của thiện nam tử Raṭṭhapāla, nói với thiện nam tử Raṭṭhapāla:
tatiyampi kho raṭṭhapālassa kulaputtassa sahāyakā raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ etadavocuṁ:

Này bạn Raṭṭhapāla, bạn là con độc nhất của cha mẹ bạn, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc.
“tvaṁ khosi, samma raṭṭhapāla, mātāpitūnaṁ ekaputtako piyo manāpo sukhedhito sukhaparibhato,

Này bạn Raṭṭhapāla, bạn không biết gì về đau khổ.
na tvaṁ, samma raṭṭhapāla, kassaci dukkhassa jānāsi,

Nếu bạn chết đi, cha mẹ bạn còn không muốn không có mặt bạn,
maraṇenapi te mātāpitaro akāmakā vinā bhavissanti.

huống nay bạn còn sống, cha mẹ bạn lại bằng lòng cho phép bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?
Kiṁ pana te taṁ jīvantaṁ anujānissanti agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya?

Hãy đứng dậy, bạn Raṭṭhapāla, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi.
Uṭṭhehi, samma raṭṭhapāla, bhuñja ca piva ca paricārehi ca,

Ăn uống, vui chơi, bạn có thể thụ hưởng các ái dục, và sung sướng làm các phước đức.
bhuñjanto pivanto paricārento kāme paribhuñjanto puññāni karonto abhiramassu.

Cha mẹ bạn không bằng lòng cho phép bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Na taṁ mātāpitaro anujānissanti agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya,

Nếu bạn chết đi, cha mẹ bạn còn không muốn không có mặt bạn,
maraṇenapi te mātāpitaro akāmakā vinā bhavissanti.

huống nay bạn còn sống, cha mẹ bạn lại bằng lòng cho phép bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
Kiṁ pana te taṁ jīvantaṁ anujānissanti agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti?

Lần thứ ba, thiện nam tử Raṭṭhapāla giữ im lặng.
Tatiyampi kho raṭṭhapālo kulaputto tuṇhī ahosi.

Rồi các thân hữu của thiện nam tử Raṭṭhapāla đi đến cha mẹ thiện nam tử Raṭṭhapāla, sau khi đến liền thưa:
Atha kho raṭṭhapālassa kulaputtassa sahāyakā yena raṭṭhapālassa kulaputtassa mātāpitaro tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā raṭṭhapālassa kulaputtassa mātāpitaro etadavocuṁ:

Thưa Mẹ và Cha, thiện nam tử Raṭṭhapāla đang nằm xuống trên đất trần kia và nói:
“ammatātā, eso raṭṭhapālo kulaputto tattheva anantarahitāya bhūmiyā nipanno:

“Ở đây, ta sẽ chết, hay được xuất gia”.
‘idheva me maraṇaṁ bhavissati pabbajjā vā’ti.

Nếu Cha Mẹ không bằng lòng cho thiện nam tử Raṭṭhapāla xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thời Raṭṭhapāla sẽ chết ở tại chỗ ấy.
Sace tumhe raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ nānujānissatha agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya, tattheva maraṇaṁ āgamissati.

Còn nếu Cha Mẹ bằng lòng cho thiện nam tử Raṭṭhapāla xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thời Cha Mẹ có thể thấy Raṭṭhapāla sau khi xuất gia.
Sace pana tumhe raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ anujānissatha agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya, pabbajitampi naṁ dakkhissatha.

Nếu thiện nam tử Raṭṭhapāla không cảm thấy hoan hỷ trong khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thời Raṭṭhapāla không còn con đường nào đi khác hơn. Raṭṭhapāla sẽ trở lại ở đây.
Sace raṭṭhapālo kulaputto nābhiramissati agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya, kā tassa aññā gati bhavissati? Idheva paccāgamissati.

Hãy bằng lòng cho phép thiện nam tử Raṭṭhapāla xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Anujānātha raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāyā”ti.

Này các con thân mến, chúng ta bằng lòng cho phép thiện nam tử Raṭṭhapāla xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
“Anujānāma, tātā, raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya.

nhưng sau khi xuất gia, cần phải về thăm cha mẹ.”
Pabbajitena ca pana mātāpitaro uddassetabbā”ti.

Rồi những thân hữu của thiện nam tử Raṭṭhapāla, đi đến thiện nam tử Raṭṭhapāla, sau khi đến, liền nói:
Atha kho raṭṭhapālassa kulaputtassa sahāyakā yena raṭṭhapālo kulaputto tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā raṭṭhapālaṁ kulaputtaṁ etadavocuṁ:

Cha mẹ bạn đã bằng lòng cho phép được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
“uṭṭhehi, samma raṭṭhapāla, anuññātosi mātāpitūhi agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya.

và sau khi xuất gia, cần phải về thăm cha mẹ.
Pabbajitena ca pana te mātāpitaro uddassetabbā”ti.

Rồi thiện nam tử Raṭṭhapāla, sau khi đứng dậy, sau khi lấy lại sức lực, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thiện nam tử Raṭṭhapāla bạch Thế Tôn:
Atha kho raṭṭhapālo kulaputto uṭṭhahitvā balaṁ gāhetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho raṭṭhapālo kulaputto bhagavantaṁ etadavoca:

Bạch Thế Tôn, con đã được mẹ cha bằng lòng cho phép con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
“anuññāto ahaṁ, bhante, mātāpitūhi agārasmā anagāriyaṁ pabbajjāya.

Thế Tôn hãy xuất gia cho con.”
Pabbājetu maṁ bhagavā”ti.

Và thiện nam tử Raṭṭhapāla được xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn và được thọ đại giới.
Alattha kho raṭṭhapālo kulaputto bhagavato santike pabbajjaṁ, alattha upasampadaṁ.

Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Raṭṭhapāla thọ đại giới không bao lâu, nửa tháng sau khi thọ đại giới, sau khi ở tại Thullakoṭṭhika cho đến khi thỏa mãn, liền khởi hành đi đến Savatthi, tuần tự du hành và đến Savatthi.
Atha kho bhagavā acirūpasampanne āyasmante raṭṭhapāle aḍḍhamāsupasampanne thullakoṭṭhike yathābhirantaṁ viharitvā yena sāvatthi tena cārikaṁ pakkāmi. Anupubbena cārikaṁ caramāno yena sāvatthi tadavasari.

Ở đấy, Thế Tôn trú tại Savatthi, Jetavana, tu viện của Anathapindika.
Tatra sudaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Rồi Tôn giả Raṭṭhapāla sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh tấn, không bao lâu đạt được mục đích mà các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến, tức là tự chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh.
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṁ pabbajanti, tadanuttaraṁ—brahmacariyapariyosānaṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.

Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lui ở đời này nữa”.
“Khīṇā jāti, vusitaṁ brahmacariyaṁ, kataṁ karaṇīyaṁ, nāparaṁ itthattāyā”ti abbhaññāsi.

Tôn giả Raṭṭhapāla trở thành một vị A-la-hán nữa.
Aññataro kho panāyasmā raṭṭhapālo arahataṁ ahosi.

Rồi Tôn giả Raṭṭhapāla đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Raṭṭhapāla bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā raṭṭhapālo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con muốn đi thăm cha mẹ, nếu Thế Tôn cho phép con.”
“icchāmahaṁ, bhante, mātāpitaro uddassetuṁ, sace maṁ bhagavā anujānātī”ti.

Thế Tôn với tâm của mình tìm hiểu tâm tư Tôn giả Raṭṭhapāla.
Atha kho bhagavā āyasmato raṭṭhapālassa cetasā ceto paricca manasākāsi.

Khi Thế Tôn được biết:
Yathā bhagavā aññāsi:

“thiện nam tử Raṭṭhapāla không thể từ bỏ tu học, trở lại hoàn tục”, liền nói với Tôn giả Raṭṭhapāla:
“abhabbo kho raṭṭhapālo kulaputto sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattitun”ti, atha kho bhagavā āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ etadavoca:

“Này Raṭṭhapāla, nay Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.”
“yassadāni tvaṁ, raṭṭhapāla, kālaṁ maññasī”ti.

Rồi Tôn giả Raṭṭhapāla từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về Thế Tôn, sau khi thâu xếp chỗ ở, cầm y bát và khởi hành đi đến Thullakoṭṭhika, tuần tự du hành và đến Thullakoṭṭhika.
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā senāsanaṁ saṁsāmetvā pattacīvaramādāya yena thullakoṭṭhikaṁ tena cārikaṁ pakkāmi. Anupubbena cārikaṁ caramāno yena thullakoṭṭhiko tadavasari.

Ở đấy, Tôn giả Raṭṭhapāla trú tại vườn Lộc Uyển của vua Koravya.
Tatra sudaṁ āyasmā raṭṭhapālo thullakoṭṭhike viharati rañño korabyassa migacīre.

Rồi tôn giả Raṭṭhapāla vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào Thullakoṭṭhika để khất thực.
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya thullakoṭṭhikaṁ piṇḍāya pāvisi.

Tôn giả đi khất thực từng nhà một ở Thullakoṭṭhika và đến tại nhà người cha mình.
Thullakoṭṭhike sapadānaṁ piṇḍāya caramāno yena sakapitu nivesanaṁ tenupasaṅkami.

Lúc bấy giờ người cha của Tôn giả Raṭṭhapāla đang chải tóc ở giữa gian phòng có cửa.
Tena kho pana samayena āyasmato raṭṭhapālassa pitā majjhimāya dvārasālāya ullikhāpeti.

Người cha của Tôn giả Raṭṭhapāla thấy Tôn giả Raṭṭhapāla từ xa đi đến, và nói.
Addasā kho āyasmato raṭṭhapālassa pitā āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ dūratova āgacchantaṁ. Disvāna etadavoca:

Chính vì những Sa-môn đầu trọc này mà đứa con độc nhất của chúng ta, khả ái, dễ thương đã xuất gia.
“imehi muṇḍakehi samaṇakehi amhākaṁ ekaputtako piyo manāpo pabbājito”ti.

Và Tôn giả Raṭṭhapāla từ ngôi nhà của cha mình, không được bố thí, không nhận được lời từ chối,
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo sakapitu nivesane neva dānaṁ alattha na paccakkhānaṁ;

chỉ nhận được lời sĩ nhục.
aññadatthu akkosameva alattha.

Lúc bấy giờ, người nữ tỳ thân gia của Tôn giả Raṭṭhapāla muốn quăng đổ cháo ngày hôm qua.
Tena kho pana samayena āyasmato raṭṭhapālassa ñātidāsī ābhidosikaṁ kummāsaṁ chaḍḍetukāmā hoti.

Tôn giả Raṭṭhapāla nói với người nữ tỳ ấy:
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo taṁ ñātidāsiṁ etadavoca:

Này Chị, nếu cần phải quăng đổ cháo này, hãy đổ vào bát của tôi ở đây.
“sacetaṁ, bhagini, chaḍḍanīyadhammaṁ, idha me patte ākirā”ti.

Rồi người nữ tỳ, trong khi đổ cháo ngày hôm qua ấy vào bát của Tôn giả Raṭṭhapāla, nhận diện được tướng tay, chân và giọng nói của Tôn giả.
Atha kho āyasmato raṭṭhapālassa ñātidāsī taṁ ābhidosikaṁ kummāsaṁ āyasmato raṭṭhapālassa patte ākirantī hatthānañca pādānañca sarassa ca nimittaṁ aggahesi.

Người nữ tỳ liền đi đến người mẹ của Tôn giả Raṭṭhapāla, sau khi đến nói với người mẹ của Tôn giả Raṭṭhapāla:
Atha kho āyasmato raṭṭhapālassa ñātidāsī yenāyasmato raṭṭhapālassa mātā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmato raṭṭhapālassa mātaraṁ etadavoca:

Thưa tôn mẫu, tôn mẫu có biết chăng, công tử (ayyaputta) Raṭṭhapāla đã trở về.
“yaggheyye, jāneyyāsi: ‘ayyaputto raṭṭhapālo anuppatto’”ti.

Nếu ngươi nói đúng sự thật, ngươi sẽ được thoát khỏi phận nô tỳ.
“Sace, je, saccaṁ bhaṇasi, adāsiṁ taṁ karomī”ti.

Rồi mẹ Tôn giả Raṭṭhapāla đi đến cha Tôn giả Raṭṭhapāla và nói:
Atha kho āyasmato raṭṭhapālassa mātā yenāyasmato raṭṭhapālassa pitā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmato raṭṭhapālassa pitaraṁ etadavoca:

Thưa gia chủ, gia chủ có biết chăng, thiện nam tử Raṭṭhapāla đã trở về.
“yagghe, gahapati, jāneyyāsi: ‘raṭṭhapālo kira kulaputto anuppatto’”ti?

Lúc bấy giờ, Tôn giả Raṭṭhapāla đang ăn cháo ngày hôm qua ấy, ngồi dựa vào một bức tường.
Tena kho pana samayena āyasmā raṭṭhapālo taṁ ābhidosikaṁ kummāsaṁ aññataraṁ kuṭṭamūlaṁ nissāya paribhuñjati.

Rồi người cha đến tại chỗ của Tôn giả Raṭṭhapāla, sau khi đến liền nói với Tôn giả Raṭṭhapāla:
Atha kho āyasmato raṭṭhapālassa pitā yenāyasmā raṭṭhapālo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ etadavoca:

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, có phải con đang ăn cháo ngày hôm qua?
“atthi nāma, tāta raṭṭhapāla, ābhidosikaṁ kummāsaṁ paribhuñjissasi?

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con phải vào nhà của con.
Nanu, tāta raṭṭhapāla, sakaṁ gehaṁ gantabban”ti?

Thưa gia chủ, chỗ nào là nhà của chúng tôi, những người xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?
“Kuto no, gahapati, amhākaṁ gehaṁ agārasmā anagāriyaṁ pabbajitānaṁ?

Chúng tôi là những người không gia đình, thưa gia chủ !
Anagārā mayaṁ, gahapati.

Chúng tôi có đến nhà của gia chủ, thưa gia chủ, nhưng tại đấy, chúng tôi không nhận được bố thí, không nhận được lời từ chối,
Agamamha kho te, gahapati, gehaṁ, tattha neva dānaṁ alatthamha na paccakkhānaṁ;

chỉ nhận được lời sỉ nhục.
aññadatthu akkosameva alatthamhā”ti.

Hãy đi vào nhà, này con thân yêu Raṭṭhapāla.
“Ehi, tāta raṭṭhapāla, gharaṁ gamissāmā”ti.

Thưa gia chủ, thôi vừa rồi ! Hôm nay tôi đã ăn xong.
“Alaṁ, gahapati, kataṁ me ajja bhattakiccaṁ”.

Vậy này con thân yêu Raṭṭhapāla, hãy nhận lời mời ngày mai đến dùng cơm.
“Tena hi, tāta raṭṭhapāla, adhivāsehi svātanāya bhattan”ti.

Tôn giả Raṭṭhapāla im lặng nhận lời.
Adhivāsesi kho āyasmā raṭṭhapālo tuṇhībhāvena.

Rồi người cha của Tôn giả Raṭṭhapāla, sau khi được biết Tôn giả Raṭṭhapāla đã nhận lời liền về đến nhà của mình, cho chất vàng nén và tiền vàng thành một đống lớn, lấy màn che lại, và cho gọi các người vợ cũ của Tôn giả Raṭṭhapāla:
Atha kho āyasmato raṭṭhapālassa pitā āyasmato raṭṭhapālassa adhivāsanaṁ viditvā yena sakaṁ nivesanaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā mahantaṁ hiraññasuvaṇṇassa puñjaṁ kārāpetvā kilañjehi paṭicchādetvā āyasmato raṭṭhapālassa purāṇadutiyikā āmantesi:

Này các con dâu, hãy tự trang điểm với những trang điểm mà xưa kia các con được thiện nam tử Raṭṭhapāla ái lạc và ưa thích.
“etha tumhe, vadhuyo, yena alaṅkārena alaṅkatā pubbe raṭṭhapālassa kulaputtassa piyā hotha manāpā tena alaṅkārena alaṅkarothā”ti.

Rồi người cha của Tôn giả Raṭṭhapāla, sau khi đêm ấy đã mãn, sau khi cho sửa soạn trong nhà của mình, các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm, liền báo giờ cho Tôn giả Raṭṭhapāla:
Atha kho āyasmato raṭṭhapālassa pitā tassā rattiyā accayena sake nivesane paṇītaṁ khādanīyaṁ bhojanīyaṁ paṭiyādāpetvā āyasmato raṭṭhapālassa kālaṁ ārocesi:

Ðã đến giờ, này con thân yêu Raṭṭhapāla, cơm đã sẵn sàng.
“kālo, tāta raṭṭhapāla, niṭṭhitaṁ bhattan”ti.

Rồi Tôn giả Raṭṭhapāla vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến ngồi nhà của người cha mình, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi người cha của Tôn giả Raṭṭhapāla cho trình bày ra đống vàng nén và tiền vàng và nói với Tôn giả Raṭṭhapāla:
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena sakapitu nivesanaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Atha kho āyasmato raṭṭhapālassa pitā taṁ hiraññasuvaṇṇassa puñjaṁ vivarāpetvā āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ etadavoca:

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, đây là tiền tài của mẹ, kia là tiền tài của cha, kia là tiền tài của tổ tiên.
“idaṁ te, tāta raṭṭhapāla, mātu mattikaṁ dhanaṁ, aññaṁ pettikaṁ, aññaṁ pitāmahaṁ.

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, con có thể thụ hưởng tài vật và làm các phước đức.
Sakkā, tāta raṭṭhapāla, bhoge ca bhuñjituṁ puññāni ca kātuṁ.

Này con thân yêu Raṭṭhapāla, hãy từ bỏ tu học, hoàn tục thụ hưởng các tài vật và làm các phước đức.
Ehi tvaṁ, tāta raṭṭhapāla, hīnāyāvattitvā bhoge ca bhuñjassu puññāni ca karohī”ti.

Thưa gia chủ, nếu gia chủ làm theo lời nói của tôi, sau khi chồng chất đống vàng nén và tiền vàng này vào trong các xe, sau khi cho chở và hạ xuống giữa sông Hằng, hãy đổ đống vàng này vào giữa dòng sông.
“Sace me tvaṁ, gahapati, vacanaṁ kareyyāsi, imaṁ hiraññasuvaṇṇassa puñjaṁ sakaṭe āropetvā nibbāhāpetvā majjhegaṅgāya nadiyā sote opilāpeyyāsi.

Vì sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Này gia chủ, vì do nhân duyên này, mà sầu, bi, khổ, ưu, não sẽ khởi lên cho gia chủ.
Ye uppajjissanti hi te, gahapati, tatonidānaṁ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti.

Rồi những người vợ cũ của Tôn giả Raṭṭhapāla ôm mỗi chân (Tôn giả) và nói:
Atha kho āyasmato raṭṭhapālassa purāṇadutiyikā paccekaṁ pādesu gahetvā āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ etadavocuṁ:

Thưa phu quân (ayyaputtaka) vì thiên nữ nào mà phu quân sống phạm hạnh?
“kīdisā nāma tā, ayyaputta, accharāyo yāsaṁ tvaṁ hetu brahmacariyaṁ carasī”ti?

Các bà chị, không phải vì thiên nữ nào mà chúng tôi sống phạm hạnh.
“Na kho mayaṁ, bhaginī, accharānaṁ hetu brahmacariyaṁ carāmā”ti.

Phu quân Raṭṭhapāla đối với chúng ta gọi chúng ta là bà chị. Nói lên như vậy, (các người vợ cũ) liền ngã xuống đất, bất tỉnh.
“Bhaginivādena no ayyaputto raṭṭhapālo samudācaratī”ti tā tattheva mucchitā papatiṁsu.

Rồi Tôn giả Raṭṭhapāla nói với phụ thân:
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo pitaraṁ etadavoca:

“Thưa gia chủ, nếu gia chủ muốn bố thí đồ ăn thời hãy bố thí đi,
“sace, gahapati, bhojanaṁ dātabbaṁ, detha;

chớ có phiền nhiễu chúng tôi.”
mā no viheṭhethā”ti.

“Hãy ăn, này con thân yêu Raṭṭhapāla, cơm đã sẵn sàng.”
“Bhuñja, tāta raṭṭhapāla, niṭṭhitaṁ bhattan”ti.

Rồi người cha của Tôn giả Raṭṭhapāla tự tay thân mời và làm cho thỏa mãn Tôn giả Raṭṭhapāla với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm.
Atha kho āyasmato raṭṭhapālassa pitā āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.

Rồi Tôn giả Raṭṭhapāla sau khi ăn xong, tay đã rời khỏi bát, đứng dậy và nói bài kệ sau đây:
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo bhuttāvī onītapattapāṇī ṭhitakova imā gāthā abhāsi:

“Hãy nhìn bóng dáng này,
Cơ thể đầy vết loét,
Bị tật bịnh, ám ảnh,
Không kiên cố thường trú.
“Passa cittīkataṁ bimbaṁ,
arukāyaṁ samussitaṁ;
Āturaṁ bahusaṅkappaṁ,
yassa natthi dhuvaṁ ṭhiti.

Hãy nhìn dung sắc này,
Đá quý và hoa tai,
Với da bọc ngoài xương,
Xinh đẹn nhờ y phục.
Passa cittīkataṁ rūpaṁ,
maṇinā kuṇḍalena ca;
Aṭṭhi tacena onaddhaṁ,
saha vatthebhi sobhati.

Chân đỏ, mặt đánh phấn,
Kẻ ngu bị phỉnh lừa,
Người không tim bờ kia.
Alattakakatā pādā,
mukhaṁ cuṇṇakamakkhitaṁ;
Alaṁ bālassa mohāya,
no ca pāragavesino.

Tóc tết thành tám bím,
Mắt đánh phấn, xoa thuốc,
Kẻ ngu bị phỉnh lừa,
Người không tìm bờ kia.
Aṭṭhāpadakatā kesā,
nettā añjanamakkhitā;
Alaṁ bālassa mohāya,
no ca pāragavesino.

Thân uế trượt, dồi phấn,
Tựa hộp trang sức vừa sơn,
Kẻ ngu bị phỉnh lừa,
Người không tìm bờ kia.
Añjanīva navā cittā,
pūtikāyo alaṅkato;
Alaṁ bālassa mohāya,
no ca pāragavesino.

Thợ săn đã giăng bẫy,
Nhưng Nai không dính bẫy,
Ta ăn xong, rồi đi,
Kẻ bẫy Nai khóc than.”
Odahi migavo pāsaṁ,
nāsadā vākaraṁ migo;
Bhutvā nivāpaṁ gacchāma,
kandante migabandhake”ti.

Tôn giả Raṭṭhapāla đọc bài kệ xong đứng dậy, liền đi đến vườn Lộc Uyển của vua Koravya, sau khi đến liền ngồi xuống nghỉ trưa dưới một gốc cây.
Atha kho āyasmā raṭṭhapālo ṭhitakova imā gāthā bhāsitvā yena rañño korabyassa migacīraṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā aññatarasmiṁ rukkhamūle divāvihāraṁ nisīdi.

Rồi vua Koravya nói với người thợ săn:
Atha kho rājā korabyo migavaṁ āmantesi:

Này thợ Săn, hãy dọn dẹp đất vườn ở Lộc Uyển,
“sodhehi, samma migava, migacīraṁ uyyānabhūmiṁ;

ta muốn đi thăm viếng cảnh đẹp.
gacchāma subhūmiṁ dassanāyā”ti.

“Thưa vâng, Ðại vương”, Người thợ săn vâng đáp vua Koravya, trong khi dọn dẹp vườn Nai, thấy Tôn giả Raṭṭhapāla đang ngồi dưới gốc cây để nghỉ trưa.
“Evaṁ, devā”ti kho migavo rañño korabyassa paṭissutvā migacīraṁ sodhento addasa āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ aññatarasmiṁ rukkhamūle divāvihāraṁ nisinnaṁ.

Sau khi thấy vậy, người ấy liền đến vua Koravya, sau khi đến liền tâu vua Koravya:
Disvāna yena rājā korabyo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā rājānaṁ korabyaṁ etadavoca:

Tâu Ðại vương, vườn Nai đã được dọn dẹp.
“suddhaṁ kho te, deva, migacīraṁ.

Và ở đấy có thiện nam tử tên là Raṭṭhapāla là con một thế gia ở Thullakoṭṭhika mà Ðại vương thường hay tán thán, vị ấy đang ngồi dưới một gốc cây để nghỉ trưa.
Atthi cettha raṭṭhapālo nāma kulaputto imasmiṁyeva thullakoṭṭhike aggakulassa putto yassa tvaṁ abhiṇhaṁ kittayamāno ahosi, so aññatarasmiṁ rukkhamūle divāvihāraṁ nisinno”ti.

Này Thợ săn, hôm nay thế là vừa đủ về vườn cảnh.
“Tena hi, samma migava, alaṁ dānajja uyyānabhūmiyā.

Nay chúng ta muốn cung kính cúng dường Tôn giả Raṭṭhapāla.
Tameva dāni mayaṁ bhavantaṁ raṭṭhapālaṁ payirupāsissāmā”ti.

Rồi vua Koravya, sau khi nói: “Ở đây, hãy đem bố thí tất cả món ăn đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm”, ra lệnh cho thắng nhiều cỗ xe thù thắng, leo lên một cỗ xe thù thắng, liền cùng với các cỗ xe đi ra khỏi Thullakoṭṭhika để yết kiến Tôn giả Raṭṭhapāla với đại uy phong của bậc đế vương.
Atha kho rājā korabyo “yaṁ tattha khādanīyaṁ bhojanīyaṁ paṭiyattaṁ taṁ sabbaṁ vissajjethā”ti vatvā bhadrāni bhadrāni yānāni yojāpetvā bhadraṁ yānaṁ abhiruhitvā bhadrehi bhadrehi yānehi thullakoṭṭhikamhā niyyāsi mahaccarājānubhāvena āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ dassanāya.

Sau khi cỡi xe cho đến chỗ đất còn có thể cỡi xe được, Ngài xuống xe, đi bộ, cùng với hàng tùy tùng vương hầu, đến chỗ của Tôn giả Raṭṭhapāla, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Tôn giả Raṭṭhapāla, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng một bên. Ðứng một bên, vua Koravya bạch Tôn giả Raṭṭhapāla:
Yāvatikā yānassa bhūmi yānena gantvā yānā paccorohitvā pattikova ussaṭāya ussaṭāya parisāya yenāyasmā raṭṭhapālo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā raṭṭhapālena saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhito kho rājā korabyo āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ etadavoca:

Ở đây xin mời Tôn giả Raṭṭhapāla ngồi xuống trên nệm voi.
“idha bhavaṁ raṭṭhapālo hatthatthare nisīdatū”ti.

Thôi vừa rồi, Ðại vương! Ðại vương hãy ngồi.
“Alaṁ, mahārāja, nisīda tvaṁ;

Tôi đã ngồi trên chỗ ngồi của tôi.
nisinno ahaṁ sake āsane”ti.

Rồi vua Koravya ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, vua Koravya bạch Tôn giả Raṭṭhapāla:
Nisīdi rājā korabyo paññatte āsane. Nisajja kho rājā korabyo āyasmantaṁ raṭṭhapālaṁ etadavoca:

Bạch Tôn giả Raṭṭhapāla, có bốn sự suy vong này. Chính do thành tựu bốn sự suy vong này mà ở đây, có người cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
“Cattārimāni, bho raṭṭhapāla, pārijuññāni yehi pārijuññehi samannāgatā idhekacce kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajanti.

Thế nào là bốn?
Katamāni cattāri?

Lão suy vong, bệnh suy vong, tài sản suy vong, thân tộc suy vong.
Jarāpārijuññaṁ, byādhipārijuññaṁ, bhogapārijuññaṁ, ñātipārijuññaṁ.

Này Tôn giả Raṭṭhapāla, thế nào là lão suy vong?
Katamañca, bho raṭṭhapāla, jarāpārijuññaṁ?

Ở đây, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla có người niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã sống mãn kỳ, đã gần mệnh chung.
Idha, bho raṭṭhapāla, ekacco jiṇṇo hoti vuḍḍho mahallako addhagato vayoanuppatto.

Vị ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

“Nay ta đã già, niên cao lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã sống mãn kỳ, đã gần mệnh chung.
‘ahaṁ khomhi etarahi jiṇṇo vuḍḍho mahallako addhagato vayoanuppatto.

Thật không dễ gì cho ta thâu được các tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài vật đã thâu hoạch.
Na kho pana mayā sukaraṁ anadhigataṁ vā bhogaṁ adhigantuṁ adhigataṁ vā bhogaṁ phātiṁ kātuṁ.

Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”.
Yannūnāhaṁ kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajeyyan’ti.

Vị này, do thành tựu lão suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
So tena jarāpārijuññena samannāgato kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajati.

Như vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla được gọi là lão suy vong.
Idaṁ vuccati, bho raṭṭhapāla, jarāpārijuññaṁ.

Nhưng Tôn giả Raṭṭhapāla nay còn trẻ, niên thiếu, còn thanh niên, tóc đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời;
Bhavaṁ kho pana raṭṭhapālo etarahi daharo yuvā susukāḷakeso bhadrena yobbanena samannāgato paṭhamena vayasā.

Tôn giả Raṭṭhapāla đâu có lão suy vong?
Taṁ bhoto raṭṭhapālassa jarāpārijuññaṁ natthi.

Vậy Tôn giả Raṭṭhapāla đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?
Kiṁ bhavaṁ raṭṭhapālo ñatvā vā disvā vā sutvā vā agārasmā anagāriyaṁ pabbajito?

Và thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, thế nào là bệnh suy vong?
Katamañca, bho raṭṭhapāla, byādhipārijuññaṁ?

Ở đây, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, có người bị bệnh, khổ đau, mang trọng bệnh.
Idha, bho raṭṭhapāla, ekacco ābādhiko hoti dukkhito bāḷhagilāno.

Vị ấy suy nghĩ như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

“Ta bị bệnh, khổ đau, mang trọng bệnh,
‘ahaṁ khomhi etarahi ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno.

thật không dễ gì cho ta thâu được các tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài vật đã thâu hoạch được.
Na kho pana mayā sukaraṁ anadhigataṁ vā bhogaṁ adhigantuṁ adhigataṁ vā bhogaṁ phātiṁ kātuṁ.

Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”.
Yannūnāhaṁ kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajeyyan’ti.

Vị này do thành tựu bệnh suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
So tena byādhipārijuññena samannāgato kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajati.

Như vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, được gọi là bệnh suy vong.
Idaṁ vuccati, bho raṭṭhapāla, byādhipārijuññaṁ.

Nhưng Tôn giả Raṭṭhapāla nay ít bệnh, ít não, tiêu hóa được điều hòa, không quá lạnh, không quá nóng;
Bhavaṁ kho pana raṭṭhapālo etarahi appābādho appātaṅko samavepākiniyā gahaṇiyā samannāgato nātisītāya nāccuṇhāya.

Tôn giả Raṭṭhapāla đâu có bệnh suy vong?
Taṁ bhoto raṭṭhapālassa byādhipārijuññaṁ natthi.

Tôn giả Raṭṭhapāla đã biết gì, đã thấy gì hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?
Kiṁ bhavaṁ raṭṭhapālo ñatvā vā disvā vā sutvā vā agārasmā anagāriyaṁ pabbajito?

Và thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, thế nào là tài sản suy vong?
Katamañca, bho raṭṭhapāla, bhogapārijuññaṁ?

Ở đây, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla có người giàu sang, tiền của nhiều, tài vật nhiều,
Idha, bho raṭṭhapāla, ekacco aḍḍho hoti mahaddhano mahābhogo.

và những tài vật của vị ấy dần dần đi đến chỗ suy vong.
Tassa te bhogā anupubbena parikkhayaṁ gacchanti.

Vị ấy suy nghĩ như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

“Ta trước đây giàu sang, tiền của nhiều, tài sản nhiều.
‘ahaṁ kho pubbe aḍḍho ahosiṁ mahaddhano mahābhogo.

Những tài vật ấy của ta dần dần đã đi đến suy vong.
Tassa me te bhogā anupubbena parikkhayaṁ gatā.

Thật không dễ gì cho ta thâu được những tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm cho tăng trưởng những tài vật đã thâu hoạch được.
Na kho pana mayā sukaraṁ anadhigataṁ vā bhogaṁ adhigantuṁ adhigataṁ vā bhogaṁ phātiṁ kātuṁ.

Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”.
Yannūnāhaṁ kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajeyyan’ti.

Vị này do thành tựu tài suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
So tena bhogapārijuññena samannāgato kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajati.

Như vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla được gọi là tài suy vong.
Idaṁ vuccati, bho raṭṭhapāla, bhogapārijuññaṁ.

Nhưng Tôn giả Raṭṭhapāla chính tại Thullakoṭṭhika này, là con của một lương gia đệ nhất;
Bhavaṁ kho pana raṭṭhapālo imasmiṁyeva thullakoṭṭhike aggakulassa putto.

Tôn giả Raṭṭhapāla đâu có tài sản suy vong?
Taṁ bhoto raṭṭhapālassa bhogapārijuññaṁ natthi.

Tôn giả Raṭṭhapāla đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?
Kiṁ bhavaṁ raṭṭhapālo ñatvā vā disvā vā sutvā vā agārasmā anagāriyaṁ pabbajito?

Và này Tôn giả Raṭṭhapāla, thế nào là thân tộc suy vong?
Katamañca, bho raṭṭhapāla, ñātipārijuññaṁ?

Ở đây, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla có người có nhiều thân hữu quen biết, bà con huyết thống,
Idha, bho raṭṭhapāla, ekaccassa bahū honti mittāmaccā ñātisālohitā.

những thân hữu quyến thuộc của người ấy dần dần đi đến chỗ suy vong.
Tassa te ñātakā anupubbena parikkhayaṁ gacchanti.

Người ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

“Trước kia, ta có nhiều người thân hữu quen biết, bà con huyết thống.
Tassa me te anupubbena parikkhayaṁ gatā.

Những thân hữu quyến thuộc ấy của ta dần dần đi đến chỗ suy vong.
Tassa me te anupubbena parikkhayaṁ gatā.

Thật không dễ gì cho ta thâu được những tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm cho tăng trưởng những tài vật đã thâu hoạch được.
Na kho pana mayā sukaraṁ anadhigataṁ vā bhogaṁ adhigantuṁ adhigataṁ vā bhogaṁ phātiṁ kātuṁ.

Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”.
Yannūnāhaṁ kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajeyyan’ti.

Vị này do thành tựu thân tộc suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
So tena ñātipārijuññena samannāgato kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajati.

Như vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, được gọi là thân tộc suy vong.
Idaṁ vuccati, bho raṭṭhapāla, ñātipārijuññaṁ.

Nhưng Tôn giả Raṭṭhapāla ở chính tại Thullakoṭṭhika này, có nhiều thân hữu quen biết, bà con huyết thống,
Bhoto kho pana raṭṭhapālassa imasmiṁyeva thullakoṭṭhike bahū mittāmaccā ñātisālohitā.

Tôn giả Raṭṭhapāla đâu có thân tộc suy vong?
Taṁ bhoto raṭṭhapālassa ñātipārijuññaṁ natthi.

Vậy Tôn giả Raṭṭhapāla đã biết gì, đã thấy gì hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?
Kiṁ bhavaṁ raṭṭhapālo ñatvā vā disvā vā sutvā vā agārasmā anagāriyaṁ pabbajito?

Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, đây là bốn loại suy vong, do thành tựu bốn loại suy vong này mà ở đây, có người cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình;
Imāni kho, bho raṭṭhapāla, cattāri pārijuññāni, yehi pārijuññehi samannāgatā idhekacce kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajanti.

Tôn giả Raṭṭhapāla đâu có những loại ấy?
Tāni bhoto raṭṭhapālassa natthi.

Vậy Tôn giả đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?
Kiṁ bhavaṁ raṭṭhapālo ñatvā vā disvā vā sutvā vā agārasmā anagāriyaṁ pabbajito”ti?

Thưa Ðại vương, có bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
“Atthi kho, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena cattāro dhammuddesā uddiṭṭhā, ye ahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

Thế nào là bốn?
Katame cattāro?

“Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt”,
‘Upaniyyati loko addhuvo’ti

thưa Ðại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ nhất, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
kho, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena paṭhamo dhammuddeso uddiṭṭho, yamahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

“Thế giới là vô hộ, vô chủ”, thưa Ðại vương,
‘Atāṇo loko anabhissaro’ti

đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ hai, do Thế Tôn, bậc Tri Giả. Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
kho, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena dutiyo dhammuddeso uddiṭṭho, yamahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

“Thế giới là vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả”,
‘Assako loko, sabbaṁ pahāya gamanīyan’ti

thưa Ðại vương đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ ba, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy, tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
kho, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena tatiyo dhammuddeso uddiṭṭho, yamahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

“Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái”,
‘Ūno loko atitto taṇhādāso’ti

thưa Ðại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ tư, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy, tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
kho, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena catuttho dhammuddeso uddiṭṭho, yamahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

Thưa Ðại vương, đây là bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Ime kho, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena cattāro dhammuddesā uddiṭṭhā, ye ahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito”ti.

Tôn giả Raṭṭhapāla đã nói: “Thế giới là vô thường đi đến hủy diệt,” ý nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla?
“‘Upaniyyati loko addhuvo’ti—bhavaṁ raṭṭhapālo āha. Imassa, bho raṭṭhapāla, bhāsitassa kathaṁ attho daṭṭhabbo”ti?

Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Khi Ngài 20 tuổi, hay 25 tuổi, Ngài có thiện nghệ về voi, thiện nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế mạnh và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ trong nghề đánh giặc?
tvaṁ vīsativassuddesikopi paṇṇavīsativassuddesikopi hatthismimpi katāvī assasmimpi katāvī rathasmimpi katāvī dhanusmimpi katāvī tharusmimpi katāvī ūrubalī bāhubalī alamatto saṅgāmāvacaro”ti?

Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, khi tôi được 20 hay 25 tuổi, tôi thiện nghệ về voi, tôi thiện nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế mạnh, và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ trong nghề đánh giặc.
“Ahosiṁ ahaṁ, bho raṭṭhapāla, vīsativassuddesikopi paṇṇavīsativassuddesikopi hatthismimpi katāvī assasmimpi katāvī rathasmimpi katāvī dhanusmimpi katāvī tharusmimpi katāvī ūrubalī bāhubalī alamatto saṅgāmāvacaro.

Có đôi lúc, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, tôi cảm thấy có thần lực và xem không ai có thể bằng tôi về sức mạnh.
Appekadāhaṁ, bho raṭṭhapāla, iddhimāva maññe na attano balena samasamaṁ samanupassāmī”ti.

Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Nay Ðại vương vẫn còn bắp vế mạnh, cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ đánh giặc như vậy không?
evameva tvaṁ etarahi ūrubalī bāhubalī alamatto saṅgāmāvacaro”ti?

Không như vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla,
“No hidaṁ, bho raṭṭhapāla.

nay tôi đã già, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã sống mãn kỳ, đã gần mệnh chung, gần 80 tuổi thọ.
Etarahi jiṇṇo vuḍḍho mahallako addhagato vayoanuppatto āsītiko me vayo vattati.

Có đôi lúc, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, tôi nghĩ: “Ở đây, ta sẽ bước chân”, nhưng tôi lại bước chân tại chỗ khác.
Appekadāhaṁ, bho raṭṭhapāla, ‘idha pādaṁ karissāmī’ti aññeneva pādaṁ karomī”ti.

Chính liên hệ với nghĩa này, này Ðại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói:
“Idaṁ kho taṁ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sandhāya bhāsitaṁ:

“Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt”, và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
‘upaniyyati loko addhuvo’ti, yamahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito”ti.

Thật vi diệu thay, Tôn Giả Raṭṭhapāla! Thật hy hữu thay, Tôn giả Raṭṭhapāla!
“Acchariyaṁ, bho raṭṭhapāla, abbhutaṁ, bho raṭṭhapāla.

Ý nghĩa này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, Bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt”.
Yāva subhāsitañcidaṁ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena: ‘upaniyyati loko addhuvo’ti.

Thật vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt.
Upaniyyati hi, bho raṭṭhapāla, loko addhuvo.

Nhưng thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, ở vương quốc này, có đội quân voi, cũng có đội quân ngựa, cũng có đội quân xa, cũng có đội quân bộ, nếu chúng tôi gặp nguy khốn thời các đội quân bảo vệ chúng tôi. Tôn giả Raṭṭhapāla đã nói:
Saṁvijjante kho, bho raṭṭhapāla, imasmiṁ rājakule hatthikāyāpi assakāyāpi rathakāyāpi pattikāyāpi, amhākaṁ āpadāsu pariyodhāya vattissanti.

“Thế giới là vô hộ, vô chủ”, ý nghĩa của lời nói này, cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla?
‘Atāṇo loko anabhissaro’ti—bhavaṁ raṭṭhapālo āha. Imassa pana, bho raṭṭhapāla, bhāsitassa kathaṁ attho daṭṭhabbo”ti?

Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Ðại vương có mắc chứng bệnh kinh niên nào không?
atthi te koci anusāyiko ābādho”ti?

Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, tôi có bệnh phong kinh niên.
“Atthi me, bho raṭṭhapāla, anusāyiko ābādho.

Nhiều khi, thân hữu quen biết, bà con huyết thống đứng xung quanh tôi và nói:
Appekadā maṁ, bho raṭṭhapāla, mittāmaccā ñātisālohitā parivāretvā ṭhitā honti:

“Nay vua Koravya sẽ mệnh chung, nay vua Koravya sẽ mệnh chung”.
‘idāni rājā korabyo kālaṁ karissati, idāni rājā korabyo kālaṁ karissatī’”ti.

Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Ðại vương có thể nói chăng, với các thân hữu quen biết, bà con huyết thống của Ðại vương:
labhasi tvaṁ te mittāmacce ñātisālohite:

“Mong rằng Tôn giả thân hữu quen biết, bà con huyết thống làm vơi nhẹ sự đau khổ của tôi! Mong tất cả hãy san sẻ cảm thọ này, để tôi có thể có một cảm thọ nhẹ nhàng hơn”;
‘āyantu me bhonto mittāmaccā ñātisālohitā, sabbeva santā imaṁ vedanaṁ saṁvibhajatha, yathāhaṁ lahukatarikaṁ vedanaṁ vediyeyyan’ti—

hay là Ðại vương chỉ có thể thọ lãnh cảm thọ ấy một mình?
udāhu tvaṁyeva taṁ vedanaṁ vediyasī”ti?

Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, tôi không có thể nói với các thân hữu quen biết, bà con huyết thống của tôi: “Mong rằng các Tôn giả thân hữu quen biết, bà con huyết thống làm vơi nhẹ sự đau khổ của tôi. Mong tất cả hãy san sẻ cảm thọ này để có thể có một cảm thọ nhẹ nhàng hơn”;
“Nāhaṁ, bho raṭṭhapāla, labhāmi te mittāmacce ñātisālohite: ‘āyantu me bhonto mittāmaccā ñātisālohitā, sabbeva santā imaṁ vedanaṁ saṁvibhajatha, yathāhaṁ lahukatarikaṁ vedanaṁ vediyeyyan’ti.

và tôi chỉ có thể thọ lãnh cảm thọ ấy một mình”.
Atha kho ahameva taṁ vedanaṁ vediyāmī”ti.

Chính liên hệ với nghĩa này, này Ðại vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói:
“Idaṁ kho taṁ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sandhāya bhāsitaṁ:

“Thế giới là vô hộ, vô chủ”, và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
‘atāṇo loko anabhissaro’ti, yamahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito”ti.

Thật vi diệu thay, Tôn giả Raṭṭhapāla! Thật hy hữu thay, Tôn giả Raṭṭhapāla!
“Acchariyaṁ, bho raṭṭhapāla, abbhutaṁ, bho raṭṭhapāla.

Ý nghĩa này được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là vô hộ, vô chủ”.
Yāva subhāsitaṁ cidaṁ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena:‘atāṇo loko anabhissaro’ti.

Thật vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, thế giới là vô hộ, vô chủ.
Atāṇo hi, bho raṭṭhapāla, loko anabhissaro.

Nhưng thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, ở vương quốc này có rất nhiều vàng nén và tiền vàng dưới đất và trên mặt đất”.
Saṁvijjati kho, bho raṭṭhapāla, imasmiṁ rājakule pahūtaṁ hiraññasuvaṇṇaṁ bhūmigatañca vehāsagatañca.

Tôn giả Raṭṭhapāla đã nói: “Thế giới là vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả”.
‘Assako loko, sabbaṁ pahāya gamanīyan’ti—bhavaṁ raṭṭhapālo āha.

Ý nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla?
Imassa pana, bho raṭṭhapāla, bhāsitassa kathaṁ attho daṭṭhabbo”ti?

Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Dầu cho nay Ðại vương sống thụ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng, Ðại vương có thể nói được như sau:
yathā tvaṁ etarahi pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāresi, lacchasi tvaṁ paratthāpi:

“Chính như vậy, tôi thọ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng này”; hay là người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, còn Ðại vương sẽ phải đi theo nghiệp của mình?
‘evamevāhaṁ imeheva pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāremī’ti, udāhu aññe imaṁ bhogaṁ paṭipajjissanti, tvaṁ pana yathākammaṁ gamissasī”ti?

Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, dầu cho nay tôi sống thụ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng. Tôi không có thể nói được như sau: “Chính như vậy tôi thọ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng này”.
“Yathāhaṁ, bho raṭṭhapāla, etarahi pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāremi, nāhaṁ lacchāmi paratthāpi: ‘evameva imeheva pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāremī’ti.

Chính người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, còn tôi phải đi theo nghiệp của tôi.
Atha kho aññe imaṁ bhogaṁ paṭipajjissanti; ahaṁ pana yathākammaṁ gamissāmī”ti.

Chính liên hệ với nghĩa này, này Ðại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói:
“Idaṁ kho taṁ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sandhāya bhāsitaṁ:

“Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả”. Và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
‘assako loko, sabbaṁ pahāya gamanīyan’ti, yamahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito”ti.

Thật vi diệu thay, Tôn giả Raṭṭhapāla! Thật hy hữu thay, Tôn giả Raṭṭhapāla!
“Acchariyaṁ, bho raṭṭhapāla, abbhutaṁ, bho raṭṭhapāla.

Ý nghĩa này được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả”.
Yāva subhāsitaṁ cidaṁ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena: ‘assako loko, sabbaṁ pahāya gamanīyan’ti.

Thật vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả.
Assako hi, bho raṭṭhapāla, loko sabbaṁ pahāya gamanīyaṁ.

Tôn giả Raṭṭhapāla đã nói: “Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái”.
‘Ūno loko atitto taṇhādāso’ti—bhavaṁ raṭṭhapālo āha.

Ý nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla?
Imassa, bho raṭṭhapāla, bhāsitassa kathaṁ attho daṭṭhabbo”ti?

Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Có phải Ðại vương trị vì ở Kuru, một nước phồn thịnh?
phītaṁ kuruṁ ajjhāvasasī”ti?

Thưa vâng, Tôn giả Raṭṭhapāla. Tôi trị vì ở Kuru, một nước phồn thịnh.
“Evaṁ, bho raṭṭhapāla, phītaṁ kuruṁ ajjhāvasāmī”ti.

Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Nếu có người đáng tin cậy, chánh trực đến với Ðại vương từ phương Ðông,
idha puriso āgaccheyya puratthimāya disāya saddhāyiko paccayiko.

và sau khi đến tâu với Ðại Vương:
So taṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadeyya:

“Tâu Ðại vương, Ðại vương có biết chăng? Tôi từ phương Ðông lại.
‘yagghe, mahārāja, jāneyyāsi, ahaṁ āgacchāmi puratthimāya disāya?

Ở đấy, tôi có thấy một quốc độ lớn, phú cường, phồn thịnh, dân cư trù mật.
Tatthaddasaṁ mahantaṁ janapadaṁ iddhañceva phītañca bahujanaṁ ākiṇṇamanussaṁ.

Tại đấy có nhiều đội voi, đội ngựa, đội xe, bộ đội.
Bahū tattha hatthikāyā assakāyā rathakāyā pattikāyā;

Tại đấy có nhiều ngà voi,
bahu tattha dhanadhaññaṁ;

tại đấy có nhiều vàng nén, tiền vàng chưa làm và đã làm,
bahu tattha hiraññasuvaṇṇaṁ akatañceva katañca;

có nhiều phụ nữ.
bahu tattha itthipariggaho.

Và có thể chinh phục quốc độ ấy với vũ lực như thế ấy.
Sakkā ca tāvatakeneva balamattena abhivijinituṁ.

Tâu Ðại vương, hãy đi chinh phục, ‘Ðại vương sẽ hành động như thế nào?’
Abhivijina, mahārājā’ti, kinti naṁ kareyyāsī”ti?

Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, sau khi chinh phục quốc độ ấy, tôi sẽ trị vì.
“Tampi mayaṁ, bho raṭṭhapāla, abhivijiya ajjhāvaseyyāmā”ti.

Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Ở đây có người đến với Ðại vương từ phương Tây …
idha puriso āgaccheyya pacchimāya disāya …

từ phương Bắc …
uttarāya disāya …

từ phương Nam …
dakkhiṇāya disāya …

từ bờ biển bên kia,
parasamuddato saddhāyiko paccayiko.

Người ấy đáng tin cậy, chánh trực, tâu với Ðại vương:
So taṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadeyya:

“Tâu Ðại vương, Ðại vương có biết chăng? Tôi từ bờ biển bên kia lại. Ở đây, tôi thấy có một quốc độ lớn, phú cường, phồn thịnh, dân cư trù mật. Tại đấy có nhiều đội voi, đội ngựa, đội xe, bộ đội. Tại đấy có nhiều ngà voi. Tại đấy có nhiều vàng nén, tiền vàng chưa làm và đã làm, có nhiều phụ nữ. Và có thể chinh phục quốc độ ấy với vũ lực như thế ấy. Tâu Ðại vương , hãy đi chinh phục”.
‘yagghe, mahārāja, jāneyyāsi, ahaṁ āgacchāmi parasamuddato? Tatthaddasaṁ mahantaṁ janapadaṁ iddhañceva phītañca bahujanaṁ ākiṇṇamanussaṁ.Bahū tattha hatthikāyā assakāyā rathakāyā pattikāyā;bahu tattha dhanadhaññaṁ;bahu tattha hiraññasuvaṇṇaṁ akatañceva katañca;bahu tattha itthipariggaho. Sakkā ca tāvatakeneva balamattena abhivijinituṁ.

Ðại vương sẽ hành động như thế nào?
Abhivijina, mahārājā’ti, kinti naṁ kareyyāsī”ti?

Thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, sau khi chinh phục quốc độ ấy, tôi sẽ trị vì.
“Tampi mayaṁ, bho raṭṭhapāla, abhivijiya ajjhāvaseyyāmā”ti.

Chính liên hệ với nghĩa này, này Ðại vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói:
“Idaṁ kho taṁ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sandhāya bhāsitaṁ:

“Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái, “
‘ūno loko atitto taṇhādāso’ti,

và tôi sau khi biết, sau khi thấy, sau khi nghe như vậy, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
yamahaṁ ñatvā ca disvā ca sutvā ca agārasmā anagāriyaṁ pabbajito”ti.

Thật vi diệu thay, Tôn giả Raṭṭhapāla! Thật hy hữu thay, Tôn giả Raṭṭhapāla!
“Acchariyaṁ, bho raṭṭhapāla, abbhutaṁ, bho raṭṭhapāla.

Ý nghĩa này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái”.
Yāva subhāsitañcidaṁ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena:‘ūno loko atitto taṇhādāso’ti.

Thật vậy, thưa Tôn giả Raṭṭhapāla, thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái.
Ūno hi, bho raṭṭhapāla, loko atitto taṇhādāso”ti.

Tôn giả Raṭṭhapāla đã giảng như vậy.
Idamavoca āyasmā raṭṭhapālo.

Sau khi giảng như vậy xong, lại nói thêm như sau:
Idaṁ vatvā athāparaṁ etadavoca:

“Ở đời, ta đã thấy
Kẻ giàu sang, có của,
Si mê, không bố thí,
Tham lam, trữ của cải,
Chạy theo những tham dục.
“Passāmi loke sadhane manusse,
Laddhāna vittaṁ na dadanti mohā;
Luddhā dhanaṁ sannicayaṁ karonti,
Bhiyyova kāme abhipatthayanti.

Vua chinh phục địa cầu,
Dùng vũ lực cai trị,
Bờ này đến bờ kia,
Bờ bên này chưa thoã,
Vẫn khao khát bờ kia.
Rājā pasayhā pathaviṁ vijitvā,
Sasāgarantaṁ mahimāvasanto;
Oraṁ samuddassa atittarūpo,
Pāraṁ samuddassapi patthayetha.

Tất cả rồi cũng chết,
Vua cũng không ngoại lệ,
Đến chết vẫn còn Tham,
Bỏ thân còn Ái dục,
Cõi dục không thoã mãn.
Rājā ca aññe ca bahū manussā,
Avītataṇhā maraṇaṁ upenti;
Ūnāva hutvāna jahanti dehaṁ,
Kāmehi lokamhi na hatthi titti.

Các quyến thuộc khóc than,
“Ôi! người không bất tử”,
Cho xác vào vải liệm,
Đốt cháy trên giàn thiêu.
Kandanti naṁ ñātī pakiriya kese,
Ahovatā no amarāti cāhu;
Vatthena naṁ pārutaṁ nīharitvā,
Citaṁ samādāya tatoḍahanti.

Bị thọc, cọc đang cháy,
Vải quấn, tài sản đâu.
Quyến thuộc cùng thân hữu,
Không giúp ta vượt Chết.
So ḍayhati sūlehi tujjamāno,
Ekena vatthena pahāya bhoge;
Na mīyamānassa bhavanti tāṇā,
Ñātīdha mittā atha vā sahāyā.

Tài sản bị lấy đi,
Bởi những kẻ thừa tự,
Nghiệp đi theo chúng sanh,
Vợ (chồng) cùng con cái,
Quốc độ cùng của cải,
Khi chết không mang theo.
Dāyādakā tassa dhanaṁ haranti,
Satto pana gacchati yena kammaṁ;
Na mīyamānaṁ dhanamanveti kiñci,
Puttā ca dārā ca dhanañca raṭṭhaṁ.

Tài sản không thể mua,
Trường thọ được sống lâu,
Phú quý cũng không thể,
Tránh né được cái Già,
Kẻ trí nói ‘đời ngắn’,
Luôn biến đổi, vô thường.
Na dīghamāyuṁ labhate dhanena,
Na cāpi vittena jaraṁ vihanti;
Appaṁ hidaṁ jīvitamāhu dhīrā,
Asassataṁ vippariṇāmadhammaṁ.

Xúc (chạm) không phân giàu nghèo,
Trí hay ngu đều (có) xúc,
Kẻ ngu bị si ám,
Người trí vô uý xúc (chạm).
Aḍḍhā daliddā ca phusanti phassaṁ,
Bālo ca dhīro ca tatheva phuṭṭho;
Bālo ca bālyā vadhitova seti,
Dhīro ca na vedhati phassaphuṭṭho.

Trí tuệ thắng tài vật,
Nhờ trí, đời (nay) viên mãn,
Si mê, tạo ác hạnh,
Không viên mãn, luân hồi.
Tasmā hi paññāva dhanena seyyo,
Yāya vosānamidhādhigacchati;
Abyositattā hi bhavābhavesu,
Pāpāni kammāni karonti mohā.

Nhập khai, sanh cõi khác,
Luân hồi, tiếp tục sanh,
Kẻ thiểu trí, có tín,
Nhập thai, đến đời sau.
Upeti gabbhañca parañca lokaṁ,
Saṁsāramāpajja paramparāya;
Tassappapañño abhisaddahanto,
Upeti gabbhañca parañca lokaṁ.

Tên trộm bắt tại cửa,
Bị phạt do ác hạnh,
Mạng chung đến đời sau,
Ác hạnh cho quả khổ.
Coro yathā sandhimukhe gahito,
Sakammunā haññati pāpadhammo;
Evaṁ pajā pecca paramhi loke,
Sakammunā haññati pāpadhammo.

Tham dục nhiều, ngon, ngọt,
Ẩn tàng, nhiễu loạn Tâm,
Các căn gặp nguy hiểm,
Này Đại Vương, thấy vậy,
Ta chọn đường xuất gia.
Kāmāhi citrā madhurā manoramā,
Virūparūpena mathenti cittaṁ;
Ādīnavaṁ kāmaguṇesu disvā,
Tasmā ahaṁ pabbajitomhi rāja.

Quả rụng, người cũng rụng,
Thân hoại, dù già trẻ,
Thấy vậy, này Đại Vương,
Ta sống đời xuất gia,
Sa-Môn hạnh tối thắng.”
Dumapphalāneva patanti māṇavā,
Daharā ca vuḍḍhā ca sarīrabhedā;
Etampi disvā pabbajitomhi rāja,
Apaṇṇakaṁ sāmaññameva seyyo”ti.

Raṭṭhapālasuttaṁ niṭṭhitaṁ dutiyaṁ.