Kinh Trung Bộ 21
Majjhima Nikāya 21
Kinh Ví Dụ Cái Cưa
Kakacūpamasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Moliya Phagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo ni một cách quá độ.
Tena kho pana samayena āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṁ ativelaṁ saṁsaṭṭho viharati.
Tôn giả Moliya Phagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như sau:
Evaṁ saṁsaṭṭho āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṁ viharati—
Nếu có Tỷ-kheo nào, trước mặt Tôn giả Moliya Phagguna nói xấu các Tỷ-kheo-ni ấy, Tôn giả Moliya Phagguna liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội ngay;
sace koci bhikkhu āyasmato moḷiyaphaggunassa sammukhā tāsaṁ bhikkhunīnaṁ avaṇṇaṁ bhāsati, tenāyasmā moḷiyaphagguno kupito anattamano adhikaraṇampi karoti.
nếu có Tỷ-kheo nào, trước mặt các Tỷ-kheo ni ấy, nói xấu Tôn giả Moliya Phagguna, các Tỷ-kheo ni ấy liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội ngay.
Sace pana koci bhikkhu tāsaṁ bhikkhunīnaṁ sammukhā āyasmato moḷiyaphaggunassa avaṇṇaṁ bhāsati, tena tā bhikkhuniyo kupitā anattamanā adhikaraṇampi karonti.
Tôn giả Moliya Phagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như vậy.
Evaṁ saṁsaṭṭho āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṁ viharati.
Có một Tỷ-kheo khác đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Moliya Phagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo ni một cách quá độ.
“āyasmā, bhante, moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṁ ativelaṁ saṁsaṭṭho viharati.
Bạch Thế Tôn, Tôn giả Moliya Phagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như sau:
Evaṁ saṁsaṭṭho, bhante, āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṁ viharati—
Nếu có Tỷ-kheo nào, trước mặt Tôn giả Moliya Phagguna nói xấu các Tỷ-kheo-ni ấy, Tôn giả Moliya Phagguna liền phẫn nộ, bất mãn và vấn tội ngay;
sace koci bhikkhu āyasmato moḷiyaphaggunassa sammukhā tāsaṁ bhikkhunīnaṁ avaṇṇaṁ bhāsati, tenāyasmā moḷiyaphagguno kupito anattamano adhikaraṇampi karoti.
nếu có Tỷ-kheo nào, trước mặt các Tỷ-kheo ni ấy, nói xấu Tôn giả Moliya Phagguna, các Tỷ-kheo-ni ấy liền phẫn nộ, bất mãn và vấn tội ngay.
Sace pana koci bhikkhu tāsaṁ bhikkhunīnaṁ sammukhā āyasmato moḷiyaphaggunassa avaṇṇaṁ bhāsati, tena tā bhikkhuniyo kupitā anattamanā adhikaraṇampi karonti.
Bạch Thế Tôn, Tôn giả Moliya Phagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ như vậy”.
Evaṁ saṁsaṭṭho, bhante, āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṁ viharatī”ti.
Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo khác và bảo:
Atha kho bhagavā aññataraṁ bhikkhuṁ āmantesi:
“Này Tỷ-kheo, hãy đi, nhân danh Ta, cho gọi Tỷ-kheo Moliya Phagguna: “Hiền giả Phagguna, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả”.
“ehi tvaṁ, bhikkhu, mama vacanena moḷiyaphaggunaṁ bhikkhuṁ āmantehi: ‘satthā taṁ, āvuso phagguna, āmantetī’”ti.
“Bạch Thế Tôn, vâng,” Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến chỗ Tôn giả Moliya Phagguna, khi đến xong, liền thưa Tôn giả Moliya Phagguna:
“Evaṁ, bhante”ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yenāyasmā moḷiyaphagguno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ moḷiyaphaggunaṁ etadavoca:
“Hiền giả Moliya Phagguna, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả.”
“satthā taṁ, āvuso phagguna, āmantetī”ti.
“Vâng, Hiền giả,” Tỷ-kheo Moliya Phagguna vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Moliya Phagguna đang ngồi xuống một bên:
“Evamāvuso”ti kho āyasmā moḷiyaphagguno tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho āyasmantaṁ moḷiyaphaggunaṁ bhagavā etadavoca:
“Này Phagguna, có đúng sự thật không, như lời người ta đồn là ông sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ?
“Saccaṁ kira tvaṁ, phagguna, bhikkhunīhi saddhiṁ ativelaṁ saṁsaṭṭho viharasi?
Người ta đồn ông sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như sau:
Evaṁ saṁsaṭṭho kira tvaṁ, phagguna, bhikkhunīhi saddhiṁ viharasi—
Nếu Tỷ-kheo nào, trước mặt ông nói xấu các Tỷ-kheo-ni ấy, ông liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội ngay;
sace koci bhikkhu tuyhaṁ sammukhā tāsaṁ bhikkhunīnaṁ avaṇṇaṁ bhāsati, tena tvaṁ kupito anattamano adhikaraṇampi karosi.
nếu Tỷ-kheo nào, trước mặt các Tỷ-kheo-ni ấy, nói xấu ông, các Tỷ-kheo-ni ấy liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội ngay.
Sace pana koci bhikkhu tāsaṁ bhikkhunīnaṁ sammukhā tuyhaṁ avaṇṇaṁ bhāsati, tena tā bhikkhuniyo kupitā anattamanā adhikaraṇampi karonti.
Này Phagguna, có phải ông sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như vậy?”
Evaṁ saṁsaṭṭho kira tvaṁ, phagguna, bhikkhunīhi saddhiṁ viharasī”ti?
“Bạch Thế Tôn, có như vậy.”
“Evaṁ, bhante”ti.
“Này Phagguna, có phải ông là Thiện nam tử, vì lòng tin, đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình?”
“Nanu tvaṁ, phagguna, kulaputto saddhā agārasmā anagāriyaṁ pabbajito”ti?
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”ti.
“Này Phagguna, thật không xứng đáng cho ông, một Thiện nam tử, vì lòng tin đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, mà sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ như vậy.
“Na kho te etaṁ, phagguna, patirūpaṁ kulaputtassa saddhā agārasmā anagāriyaṁ pabbajitassa, yaṁ tvaṁ bhikkhunīhi saddhiṁ ativelaṁ saṁsaṭṭho vihareyyāsi.
Do vậy, này Phagguna, nếu có ai trước mặt ông, nói xấu các Tỷ-kheo-ni ấy, này Phagguna, ông phải từ bỏ những dục liên hệ đến thế tục, những tư duy liên hệ đến thế tục.
Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci sammukhā tāsaṁ bhikkhunīnaṁ avaṇṇaṁ bhāseyya, tatrāpi tvaṁ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
Này Phagguna, ông phải học tập như sau:
Tatrāpi te, phagguna, evaṁ sikkhitabbaṁ:
‘Mong rằng tâm của ta sẽ không bi biến nhiễm! Mong rằng ta sẽ không nói những lời ác ngữ! Mong rằng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận!’
‘na ceva me cittaṁ vipariṇataṁ bhavissati, na ca pāpikaṁ vācaṁ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Này Phagguna, ông phải học tập như vậy.
Evañhi te, phagguna, sikkhitabbaṁ.
Do vậy, này Phagguna, nếu có ai trước mặt ông, lấy tay đánh những Tỷ-kheo-ni ấy, lấy đất ném, lấy gậy đập, lấy gươm đánh, này Phagguna, ông phải từ bỏ những dục liên hệ đến thế tục, những tư duy liên hệ đến thế tục.
Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci sammukhā tāsaṁ bhikkhunīnaṁ pāṇinā pahāraṁ dadeyya, leḍḍunā pahāraṁ dadeyya, daṇḍena pahāraṁ dadeyya, satthena pahāraṁ dadeyya. Tatrāpi tvaṁ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
Này Phagguna, ông phải học tập như sau:
Tatrāpi te, phagguna, evaṁ sikkhitabbaṁ
‘Mong rằng tâm của ta sẽ không bi biến nhiễm! Mong rằng ta sẽ không nói những lời ác ngữ! Mong rằng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận!’
‘na ceva me cittaṁ vipariṇataṁ bhavissati, na ca pāpikaṁ vācaṁ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Này Phagguna, ông phải học tập như vậy.
Evañhi te, phagguna, sikkhitabbaṁ.
Do vậy, này Phagguna, nếu có ai trước mặt ông nói xấu (ai), này Phagguna, ông phải từ bỏ những dục liên hệ đến thế tục, những tư duy liên hệ đến thế tục.
Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci sammukhā avaṇṇaṁ bhāseyya, tatrāpi tvaṁ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
Này Phagguna, ông phải học tập như sau: “Mong rằng tâm của ta sẽ không bi biến nhiễm! Mong rằng ta sẽ không nói những lời ác ngữ! Mong rằng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận!”
Tatrāpi te, phagguna, evaṁ sikkhitabbaṁ ‘na ceva me cittaṁ vipariṇataṁ bhavissati, na ca pāpikaṁ vācaṁ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Này Phagguna, ông phải học tập như vậy.
Evañhi te, phagguna, sikkhitabbaṁ.
Do vậy, này Phagguna, nếu có ai trước mặt ông lấy tay đánh, lấy đất ném, lấy gậy đập, lấy gươm đánh, này Phagguna, ông phải từ bỏ những dục liên hệ đến thế tục, những tư duy liên hệ đến thế tục.
Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci pāṇinā pahāraṁ dadeyya, leḍḍunā pahāraṁ dadeyya, daṇḍena pahāraṁ dadeyya, satthena pahāraṁ dadeyya, tatrāpi tvaṁ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
Này Phagguna, ông phải học tập như sau: “Mong rằng tâm của ta sẽ không bị biến nhiễm! Mong rằng ta sẽ không nói những lời ác ngữ! Mong rằng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận!”
Tatrāpi te, phagguna, evaṁ sikkhitabbaṁ ‘na ceva me cittaṁ vipariṇataṁ bhavissati, na ca pāpikaṁ vācaṁ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Này Phagguna, ông phải học tập như vậy.”
Evañhi te, phagguna, sikkhitabban”ti.
Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi:
“Này các Tỷ-kheo, một thời các Tỷ-kheo của Ta có tâm rất thuần thục hoan hỷ.
“ārādhayiṁsu vata me, bhikkhave, bhikkhū ekaṁ samayaṁ cittaṁ.
Này các Tỷ-kheo, ở đây, Ta bảo các Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, Ta theo hạnh nhất tọa thực.
Idhāhaṁ, bhikkhave, bhikkhū āmantesiṁ—ahaṁ kho, bhikkhave, ekāsanabhojanaṁ bhuñjāmi.
Chư Tỷ-kheo, sống theo hạnh nhất tọa thực, Ta cảm thấy không bệnh tật, không ốm đau, nhẹ nhàng, khang kiện và sảng khoái.
Ekāsanabhojanaṁ kho ahaṁ, bhikkhave, bhuñjamāno appābādhatañca sañjānāmi appātaṅkatañca lahuṭṭhānañca balañca phāsuvihārañca.
Chư Tỷ-kheo, các ông hãy sống theo hạnh nhất tọa thực.
Etha tumhepi, bhikkhave, ekāsanabhojanaṁ bhuñjatha.
Chư Tỷ-kheo, các ông theo hạnh nhất tọa thực thời các ông sẽ cảm thấy không bệnh tật, không ốm đau, nhẹ nhàng, khang kiện và sảng khoái.’
Ekāsanabhojanaṁ kho, bhikkhave, tumhepi bhuñjamānā appābādhatañca sañjānissatha appātaṅkatañca lahuṭṭhānañca balañca phāsuvihārañcāti.
Chư Tỷ-kheo, Ta không cần phải giảng dạy gì cho các Tỷ-kheo ấy;
Na me, bhikkhave, tesu bhikkhūsu anusāsanī karaṇīyā ahosi;
chư Tỷ-kheo, Ta chỉ cần khơi dậy ức niệm nơi các Tỷ-kheo ấy.
satuppādakaraṇīyameva me, bhikkhave, tesu bhikkhūsu ahosi.
Chư Tỷ-kheo, ví như trên đất bằng, tại chỗ ngã tư, có một chiếc xe đang đậu, thắng với ngựa hay, có roi ngựa đặt ngang sẵn sàng.
Seyyathāpi, bhikkhave, subhūmiyaṁ catumahāpathe ājaññaratho yutto assa ṭhito odhastapatodo.
Có người mã thuật sư thiện xảo, người đánh xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngự, leo lên xe ấy, tay trái nắm lấy dây cương, tay mặt cầm lấy roi ngựa, có thể đánh xe ngựa ấy đi tới đi lui, tại chỗ nào và như thế nào, theo ý mình muốn.
Tamenaṁ dakkho yoggācariyo assadammasārathi abhiruhitvā, vāmena hatthena rasmiyo gahetvā, dakkhiṇena hatthena patodaṁ gahetvā, yenicchakaṁ yadicchakaṁ sāreyyapi paccāsāreyyapi.
Cũng vậy chư Tỷ-kheo, Ta không cần phải giảng dạy gì cho các Tỷ-kheo ấy;
Evameva kho, bhikkhave, na me tesu bhikkhūsu anusāsanī karaṇīyā ahosi,
chư Tỷ-kheo, Ta chỉ cần khơi dậy ức niệm nơi các Tỷ-kheo ấy.
satuppādakaraṇīyameva me, bhikkhave, tesu bhikkhūsu ahosi.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện, hãy nỗ lực đối với các thiện pháp.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhepi akusalaṁ pajahatha, kusalesu dhammesu āyogaṁ karotha.
Như vậy các ông mới thành tựu sự trưởng thành, hưng thịnh, lớn mạnh trong Pháp và Luật này.
Evañhi tumhepi imasmiṁ dhammavinaye vuddhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjissatha.
Chư Tỷ-kheo, cũng như gần một thôn làng hay thị trấn nhỏ, có ngôi rừng cây sāla lớn, ngôi rừng bị các cây leo y lan bao phủ.
Seyyathāpi, bhikkhave, gāmassa vā nigamassa vā avidūre mahantaṁ sālavanaṁ. Tañcassa eḷaṇḍehi sañchannaṁ.
Có một người đến khu rừng này, muốn lợi ích cho ngôi rừng, muốn hạnh phúc, muốn an ổn khỏi các ách phược cho ngôi rừng.
Tassa kocideva puriso uppajjeyya atthakāmo hitakāmo yogakkhemakāmo.
Người ấy chặt đứt các nhành cây cong thiếu hẳn sinh lực, vất chúng ra khỏi ngôi rừng, dọn dẹp trong rừng sạch sẽ.
So yā tā sālalaṭṭhiyo kuṭilā ojāpaharaṇiyo tā chetvā bahiddhā nīhareyya, antovanaṁ suvisodhitaṁ visodheyya.
Người ấy săn sóc kỹ lưỡng các nhánh cây sāla thẳng thắn, khéo mọc.
Yā pana tā sālalaṭṭhiyo ujukā sujātā tā sammā parihareyya.
Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, sau một thời gian, ngôi rừng như vậy được trưởng thành, hưng thịnh, lớn mạnh.
Evañhetaṁ, bhikkhave, sālavanaṁ aparena samayena vuddhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjeyya.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các ông hãy từ bỏ bất thiện, hãy nỗ lực đối với các thiện pháp.
Evameva kho, bhikkhave, tumhepi akusalaṁ pajahatha, kusalesu dhammesu āyogaṁ karotha.
Như vậy các ông mới thành tựu sự trưởng thành, hưng thịnh, lớn mạnh trong Pháp và Luật này.
Evañhi tumhepi imasmiṁ dhammavinaye vuddhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjissatha.
Chư Tỷ-kheo, thuở xưa, tại thành Savatthi này có nữ gia chủ tên là Vedehikā.
Bhūtapubbaṁ, bhikkhave, imissāyeva sāvatthiyā vedehikā nāma gahapatānī ahosi.
Chư Tỷ-kheo, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được khởi lên về nữ gia chủ Vedehikā:
Vedehikāya, bhikkhave, gahapatāniyā evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
“Nữ gia chủ Vedehikā là hiền thục, nữ gia chủ Vedehikā là nhu thuận; nữ gia chủ Vedehikā là ôn hòa”.
‘soratā vedehikā gahapatānī, nivātā vedehikā gahapatānī, upasantā vedehikā gahapatānī’ti.
Chư Tỷ-kheo, nữ gia chủ Vedehikā có người nữ tỳ tên là Kāḷī, người này khéo tay, siêng năng, và làm việc cẩn thận chu toàn.
Vedehikāya kho pana, bhikkhave, gahapatāniyā kāḷī nāma dāsī ahosi dakkhā analasā susaṁvihitakammantā.
Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kāḷī khởi lên ý nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, kāḷiyā dāsiyā etadahosi:
‘Chủ của ta được tiếng đồn tốt đẹp khởi lên như sau:
‘mayhaṁ kho ayyāya evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
“Nữ gia chủ Vedehikā là hiền thục; nữ gia chủ Vedehikā là nhu thuận; nữ gia chủ Vedehikā là ôn hòa.”
“soratā vedehikā gahapatānī, nivātā vedehikā gahapatānī, upasantā vedehikā gahapatānī”ti.
Không biết nữ chủ của ta có nội sân mà không tỏ lộ hay không có nội sân,
Kiṁ nu kho me ayyā santaṁyeva nu kho ajjhattaṁ kopaṁ na pātukaroti udāhu asantaṁ
hay vì công việc ta làm cẩn thận chu toàn nên nữ chủ ta có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có?
udāhu mayhamevete kammantā susaṁvihitā yena me ayyā santaṁyeva ajjhattaṁ kopaṁ na pātukaroti, no asantaṁ?
Vậy ta hãy thử nữ chủ của ta!’
Yannūnāhaṁ ayyaṁ vīmaṁseyyan’ti.
Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kāḷī sáng ngày sau dậy thật trễ. Chư Tỷ-kheo, nữ gia chủ Vedehikā nói với nữ tỳ Kāḷī:
Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī divā uṭṭhāsi. Atha kho, bhikkhave, vedehikā gahapatānī kāḷiṁ dāsiṁ etadavoca:
‘Này Kāḷī!’
‘he je kāḷī’ti.
‘Thưa Nữ chủ, có việc gì?’
‘Kiṁ, ayye’ti?
‘Sao hôm nay Ngươi dậy trễ vậy?’
‘Kiṁ, je, divā uṭṭhāsī’ti?
‘Thưa nữ chủ, có việc gì đâu?’
‘Na khvayye, kiñcī’ti.
‘Thật sự không có việc gì à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!’ Và nữ chủ phẫn nộ, bất mãn, trừng mắt.
‘No vata re kiñci, pāpi dāsi, divā uṭṭhāsī’ti kupitā anattamanā bhākuṭiṁ akāsi.
Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kāḷī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, kāḷiyā dāsiyā etadahosi:
‘Nữ chủ của ta thật sự có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có.
‘santaṁyeva kho me ayyā ajjhattaṁ kopaṁ na pātukaroti, no asantaṁ;
Vì những công việc ta làm cẩn thận chu toàn, nên nữ chủ của ta tuy có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có.
mayhamevete kammantā susaṁvihitā, yena me ayyā santaṁyeva ajjhattaṁ kopaṁ na pātukaroti, no asantaṁ.
Vậy Ta hãy thử thêm nữa nữ chủ của ta!’
Yannūnāhaṁ bhiyyoso mattāya ayyaṁ vīmaṁseyyan’ti.
Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kāḷī ngày sau lại dậy trễ hơn nữa. Chư Tỷ-kheo, nữ chủ Vedehikā nói với nữ tỳ Kāḷī:
Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī divātaraṁyeva uṭṭhāsi. Atha kho, bhikkhave, vedehikā gahapatānī kāḷiṁ dāsiṁ etadavoca:
‘Này Kāḷī!’
‘he je kāḷī’ti.
‘Thưa Nữ chủ, có việc gì?’
‘Kiṁ, ayye’ti?
‘Sao hôm nay Ngươi dậy trễ vậy?’
‘Kiṁ, je, divātaraṁ uṭṭhāsī’ti?
‘Thưa Nữ chủ, có việc gì đâu?’
‘Na khvayye, kiñcī’ti.
‘Thật sự không có việc gì à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!’ Và nữ chủ phẫn nộ, bất mãn, thốt lên những lời bất mãn.
‘No vata re kiñci, pāpi dāsi, divātaraṁ uṭṭhāsī’ti kupitā anattamanā anattamanavācaṁ nicchāresi.
Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kāḷī suy nghĩ:
Atha kho, bhikkhave, kāḷiyā dāsiyā etadahosi:
‘Nữ chủ của ta thật sự có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có.
‘santaṁyeva kho me ayyā ajjhattaṁ kopaṁ na pātukaroti, no asantaṁ.
Vì những công việc ta làm cẩn thận chu toàn nên nữ chủ của ta tuy có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có.
Mayhamevete kammantā susaṁvihitā, yena me ayyā santaṁyeva ajjhattaṁ kopaṁ na pātukaroti, no asantaṁ.
Vậy ta hãy thử thêm nữa nữ chủ của ta!’
Yannūnāhaṁ bhiyyoso mattāya ayyaṁ vīmaṁseyyan’ti.
Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kāḷī sáng hôm sau lại dậy trễ hơn nữa. Chư Tỷ-kheo, nữ chủ Vedehikā nói với nữ tỳ Kāḷī:
Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī divātaraṁyeva uṭṭhāsi. Atha kho, bhikkhave, vedehikā gahapatānī kāḷiṁ dāsiṁ etadavoca:
‘Này Kāḷī!’
‘he je kāḷī’ti.
‘Thưa Nữ chủ, có việc gì?’
‘Kiṁ, ayye’ti?
‘Sao hôm nay Ngươi dậy trễ vậy?’
‘Kiṁ, je, divā uṭṭhāsī’ti?
‘Thưa Nữ chủ, có việc gì đâu?’
‘Na khvayye, kiñcī’ti.
‘Thật sự không có việc gì à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!’ Rồi phẫn nộ, không hoan hỷ, nàng cầm cái then gài cửa, đánh một cú trên đầu nữ tỳ khiến bể đầu.
‘No vata re kiñci, pāpi dāsi, divā uṭṭhāsī’ti kupitā anattamanā aggaḷasūciṁ gahetvā sīse pahāraṁ adāsi, sīsaṁ vobhindi.
Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kāḷī, với đầu bể máu chảy, liền đi kể lể với các nhà láng giềng:
Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī bhinnena sīsena lohitena galantena paṭivissakānaṁ ujjhāpesi:
‘Hãy xem việc làm của nữ chủ hiền thục!
‘passathayye, soratāya kammaṁ;
Hãy xem việc làm của nữ chủ nhu thuận! Hãy xem việc làm của nữ chủ ôn hòa!
passathayye, nivātāya kammaṁ, passathayye, upasantāya kammaṁ.
Sao nữ chủ nói với nữ tỳ độc nhất: “Hôm nay Ngươi dậy trễ”, rồi phẫn nộ, bất mãn, nàng cầm then gài cửa, đánh tôi một cú trên đầu khiến bể đầu”.
Kathañhi nāma ekadāsikāya divā uṭṭhāsīti kupitā anattamanā aggaḷasūciṁ gahetvā sīse pahāraṁ dassati, sīsaṁ vobhindissatī’ti.
Chư Tỷ-kheo, sau một thời gian, tiếng đồn xấu sau đây được khởi lên về nữ chủ Vedehikā:
Atha kho, bhikkhave, vedehikāya gahapatāniyā aparena samayena evaṁ pāpako kittisaddo abbhuggacchi:
“Nữ chủ Vedehikā là độc ác! Nữ chủ Vedehikā là không nhu thuận! Nữ chủ Vedehikā là không ôn hòa!”
‘caṇḍī vedehikā gahapatānī, anivātā vedehikā gahapatānī, anupasantā vedehikā gahapatānī’ti.
Cũng vậy chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo hết sức hiền lành, hết sức nhu thuận, hết sức ôn hòa trong khi chưa bị những lời nói bất khả ý, xúc phạm.
Evameva kho, bhikkhave, idhekacco bhikkhu tāvadeva soratasorato hoti nivātanivāto hoti upasantūpasanto hoti yāva na amanāpā vacanapathā phusanti.
Và chư Tỷ-kheo, chỉ khi nào Tỷ-kheo bị những lời nói bất khả ý, xúc phạm mà vị ấy vẫn hết sức hiền lành, hết sức nhu thuận, hết sức ôn hòa, khi ấy vị ấy mới được xem là hiền lành, mới được xem là nhu thuận, mới được xem là ôn hòa.
Yato ca, bhikkhave, bhikkhuṁ amanāpā vacanapathā phusanti, atha bhikkhu ‘sorato’ti veditabbo, ‘nivāto’ti veditabbo, ‘upasanto’ti veditabbo.
Chư Tỷ-kheo, Ta không gọi một Tỷ-kheo là dễ nói, khi vị ấy dễ nói về các vật dụng như y áo, món ăn, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, khi vị ấy thành tựu được tánh dễ nói. Vì sao vậy?
Nāhaṁ taṁ, bhikkhave, bhikkhuṁ ‘suvaco’ti vadāmi yo cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkhārahetu suvaco hoti, sovacassataṁ āpajjati. Taṁ kissa hetu?
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy khi không được các vật dụng như y áo, thức ăn, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, không còn là dễ nói, không còn thành tựu tánh dễ nói.
Tañhi so, bhikkhave, bhikkhu cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkhāraṁ alabhamāno na suvaco hoti, na sovacassataṁ āpajjati.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, sùng kính Pháp trở thành dễ nói, thành tựu tánh dễ nói, vị ấy Ta mới gọi là dễ nói.
Yo ca kho, bhikkhave, bhikkhu dhammaṁyeva sakkaronto, dhammaṁ garuṁ karonto, dhammaṁ mānento, dhammaṁ pūjento, dhammaṁ apacāyamāno suvaco hoti, sovacassataṁ āpajjati, tamahaṁ ‘suvaco’ti vadāmi.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy suy nghĩ: “Chỉ vì tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, sùng kính Pháp chúng ta sẽ trở thành dễ nói, thành tựu tánh dễ nói”.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘dhammaṁyeva sakkarontā, dhammaṁ garuṁ karontā, dhammaṁ mānentā, dhammaṁ pūjentā, dhammaṁ apacāyamānā suvacā bhavissāma, sovacassataṁ āpajjissāmā’ti.
Chư Tỷ-kheo, các ông phải học tập như vậy.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṁ.
Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà người khác có thể dùng khi nói với các ông:
Pañcime, bhikkhave, vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṁ—
Đúng thời hay phi thời,
kālena vā akālena vā;
chơn thực hay không chơn thực,
bhūtena vā abhūtena vā;
nhu nhuyến hay thô bạo,
saṇhena vā pharusena vā;
có lợi ích hay không lợi ích,
atthasaṁhitena vā anatthasaṁhitena vā;
với từ tâm hay với sân tâm.
mettacittā vā dosantarā vā.
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói đúng thời hay phi thời.
Kālena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ akālena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực.
bhūtena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ abhūtena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo.
saṇhena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ pharusena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích.
atthasaṁhitena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ anatthasaṁhitena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói với từ tâm hay với sân tâm.
mettacittā vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ dosantarā vā.
Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các ông cần phải học tập như sau:
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṁ sikkhitabbaṁ:
‘Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận.
‘na ceva no cittaṁ vipariṇataṁ bhavissati, na ca pāpikaṁ vācaṁ nicchāressāma, hitānukampī ca viharissāma mettacittā, na dosantarā.
Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân.’
Tañca puggalaṁ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma, tadārammaṇañca sabbāvantaṁ lokaṁ mettāsahagatena cittena vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
Chư Tỷ-kheo, như vậy các ông cần phải học tập.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṁ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm xẻng và thúng,
Seyyathāpi, bhikkhave, puriso āgaccheyya kudālapiṭakaṁ ādāya.
nói như sau:
So evaṁ vadeyya:
‘Tôi sẽ làm cho đất lớn này không thành đất nữa!’
‘ahaṁ imaṁ mahāpathaviṁ apathaviṁ karissāmī’ti.
và người ấy đào chỗ này chỗ kia, rải đất chỗ này chỗ kia, nhổ nước miếng chỗ này chỗ kia, đi tiểu tiện chỗ này chỗ kia, với ý nghĩ:
So tatra tatra vikhaṇeyya, tatra tatra vikireyya, tatra tatra oṭṭhubheyya, tatra tatra omutteyya:
‘Ngươi trở thành không phải đất! Ngươi trở thành không phải đất!’
‘apathavī bhavasi, apathavī bhavasī’ti.
Chư Tỷ-kheo, nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave,
Người ấy có thể làm cho đất lớn này trở thành không phải đất chăng?”
api nu so puriso imaṁ mahāpathaviṁ apathaviṁ kareyyā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không”. “Vì sao vậy? “
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?
Vì đất lớn này thâm sâu và vô lượng,
“Ayañhi, bhante, mahāpathavī gambhīrā appameyyā.
không dễ gì khiến cho đất lớn này trở thành không phải đất,
Sā na sukarā apathavī kātuṁ;
trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại.”
yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā”ti.
“Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà người khác có thể dùng khi nói với các ông:
“Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṁ—
Đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm.
kālena vā akālena vā; bhūtena vā abhūtena vā; saṇhena vā pharusena vā; atthasaṁhitena vā anatthasaṁhitena vā; mettacittā vā dosantarā vā.
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói đúng thời hay phi thời.
Kālena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ akālena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực.
bhūtena vā bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ abhūtena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo.
saṇhena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ pharusena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích.
atthasaṁhitena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ anatthasaṁhitena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói với từ tâm hay với sân tâm.
mettacittā vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ dosantarā vā.
Các Tỷ-kheo, ở tại đây, các ông cần phải học tập như sau:
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṁ sikkhitabbaṁ:
‘Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận.
‘na ceva no cittaṁ vipariṇataṁ bhavissati, na ca pāpikaṁ vācaṁ nicchāressāma, hitānukampī ca viharissāma mettacittā na dosantarā.
Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân.’
Tañca puggalaṁ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma, tadārammaṇañca sabbāvantaṁ lokaṁ pathavisamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
Chư Tỷ-kheo, như vậy các ông cần phải học tập.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṁ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm màu sơn, màu vàng, màu xanh sẫm hay màu đỏ tía; người ấy có thể nói như sau:
Seyyathāpi, bhikkhave, puriso āgaccheyya lākhaṁ vā haliddiṁ vā nīlaṁ vā mañjiṭṭhaṁ vā ādāya. So evaṁ vadeyya:
‘Ta sẽ viết các hình sắc trên hư không này. Ta sẽ làm cho các hình sắc hiển hiện.’
‘ahaṁ imasmiṁ ākāse rūpaṁ likhissāmi, rūpapātubhāvaṁ karissāmī’ti.
Các Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave,
Người ấy có thể viết các hình sắc trên hư không và làm cho các hình sắc hiển hiện được không?”
api nu so puriso imasmiṁ ākāse rūpaṁ likheyya, rūpapātubhāvaṁ kareyyā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao vậy?
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?
Bạch Thế Tôn, hư không là vô sắc, không thể thấy được.
“Ayañhi, bhante, ākāso arūpī anidassano.
Ở đây, không dễ gì viết các hình sắc và làm hình sắc hiển hiện,
Tattha na sukaraṁ rūpaṁ likhituṁ, rūpapātubhāvaṁ kātuṁ;
trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại.”
yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā”ti.
Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà người khác có thể dùng khi nói với các ông: “Ðúng thời hay phi thời … hay với sân tâm”. Các Tỷ-kheo, ở tại đây, các ông cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm … Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới, với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”.
“Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṁ kālena vā akālena vā …pe… tadārammaṇañca sabbāvantaṁ lokaṁ ākāsasamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
Các Tỷ-kheo, các ông cần phải học tập như vậy.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṁ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm một bó cỏ khô đang cháy và nói như sau:
Seyyathāpi, bhikkhave, puriso āgaccheyya ādittaṁ tiṇukkaṁ ādāya. So evaṁ vadeyya:
‘Ta với bó cỏ khô đang cháy này sẽ hâm nóng và đun sôi sông Hằng này.’
‘ahaṁ imāya ādittāya tiṇukkāya gaṅgaṁ nadiṁ santāpessāmi samparitāpessāmī’ti.
Chư Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave,
Người ấy, với bỏ cỏ khô đang cháy có thể hâm nóng và đun sôi sông Hằng được không?”
api nu so puriso ādittāya tiṇukkāya gaṅgaṁ nadiṁ santāpeyya samparitāpeyyā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy?
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?
Bạch Thế Tôn, vì sông Hằng thâm sâu và vô lượng,
“Gaṅgā hi, bhante, nadī gambhīrā appameyyā.
không dễ gì với bó cỏ khô đang cháy có thể hâm nóng và đun sôi sông Hằng được,
Sā na sukarā ādittāya tiṇukkāya santāpetuṁ samparitāpetuṁ;
trước khi người ấy mệt nhoài và bị thất bại.”
yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā”ti.
Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà người khác có thể dùng khi nói với các ông: “Ðúng thời hay phi thời … hay với sân tâm”. Các Tỷ-kheo, ở tại đây, các ông cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm … Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới, với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”.
“Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṁ kālena vā akālena vā …pe… tadārammaṇañca sabbāvantaṁ lokaṁ gaṅgāsamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
Các Tỷ-kheo, các ông cần phải học tập như vậy.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṁ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một cái bị bằng da mèo, đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyến, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp,
Seyyathāpi, bhikkhave, biḷārabhastā madditā sumadditā suparimadditā, mudukā tūlinī chinnasassarā chinnabhabbharā.
và một người đến, cầm gậy hay cầm mẻ sành và nói như sau:
Atha puriso āgaccheyya kaṭṭhaṁ vā kathalaṁ vā ādāya. So evaṁ vadeyya:
‘Ta sẽ lấy cái gậy hay với cái mẻ sành làm cho cái bị bằng da mèo này, đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, phát ra tiếng xì, tiếng xọp.’
‘ahaṁ imaṁ biḷārabhastaṁ madditaṁ sumadditaṁ suparimadditaṁ, mudukaṁ tūliniṁ, chinnasassaraṁ chinnabhabbharaṁ kaṭṭhena vā kathalena vā sarasaraṁ karissāmi bharabharaṁ karissāmī’ti.
Chư Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave,
Người ấy có thể, với cái gậy hay với cái mẻ sành làm cho cái bị bằng da mèo này đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, phát ra tiếng xì, tiếng xọp được không?”
api nu so puriso amuṁ biḷārabhastaṁ madditaṁ sumadditaṁ suparimadditaṁ, mudukaṁ tūliniṁ, chinnasassaraṁ chinnabhabbharaṁ kaṭṭhena vā kathalena vā sarasaraṁ kareyya, bharabharaṁ kareyyā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy?
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?
Bạch Thế Tôn, cái bị bằng da mèo này đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp,
“Amu hi, bhante, biḷārabhastā madditā sumadditā suparimadditā, mudukā tūlinī, chinnasassarā chinnabhabbharā.
không dễ gì làm cho cái bị ấy phát ra tiếng xì, tiếng xọp được,
Sā na sukarā kaṭṭhena vā kathalena vā sarasaraṁ kātuṁ bharabharaṁ kātuṁ;
trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại.”
yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā”ti.
“Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà người khác có thể dùng khi nói với các ông:
“Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṁ
Đúng thời hay phi thời,
kālena vā akālena vā;
chơn thực hay không chơn thực,
bhūtena vā abhūtena vā;
nhu nhuyến hay thô bạo,
saṇhena vā pharusena vā;
có lợi ích hay không lợi ích,
atthasaṁhitena vā anatthasaṁhitena vā;
với từ tâm hay với sân tâm.
mettacittā vā dosantarā vā.
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói đúng thời hay phi thời.
Kālena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ akālena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực.
bhūtena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ abhūtena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo.
saṇhena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ pharusena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích.
atthasaṁhitena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ anatthasaṁhitena vā;
Chư Tỷ-kheo, khi người khác nói với các ông, họ có thể nói với từ tâm hay với sân tâm.
mettacittā vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṁ dosantarā vā.
Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các ông cần phải học tập như sau:
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṁ sikkhitabbaṁ:
‘Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận.
‘na ceva no cittaṁ vipariṇataṁ bhavissati, na ca pāpikaṁ vācaṁ nicchāressāma hitānukampī ca viharissāma mettacittā na dosantarā.
Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân.’
Tañca puggalaṁ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma, tadārammaṇañca sabbāvantaṁ lokaṁ biḷārabhastāsamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
Chư Tỷ-kheo, như vậy các ông cần phải học tập.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṁ.
Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta.
Ubhatodaṇḍakena cepi, bhikkhave, kakacena corā ocarakā aṅgamaṅgāni okanteyyuṁ, tatrāpi yo mano padūseyya, na me so tena sāsanakaro.
Ở đây, chư Tỷ-kheo các ông phải học tập như sau:
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṁ sikkhitabbaṁ:
‘Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận.
‘na ceva no cittaṁ vipariṇataṁ bhavissati, na ca pāpikaṁ vācaṁ nicchāressāma, hitānukampī ca viharissāma mettacittā na dosantarā.
Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.’
Tañca puggalaṁ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma tadārammaṇañca sabbāvantaṁ lokaṁ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
Chư Tỷ-kheo, các ông cần phải học tập như vậy.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṁ.
Và này chư Tỷ-kheo, nếu các ông luôn luôn suy tư lời dạy ví dụ cái cưa này,
Imañca tumhe, bhikkhave, kakacūpamaṁ ovādaṁ abhikkhaṇaṁ manasi kareyyātha.
thì này các Tỷ-kheo, các ông có thấy loại ngôn ngữ nào, dầu tế nhị hay thô bạo mà các ông không kham nhẫn được chăng?”
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṁ vacanapathaṁ, aṇuṁ vā thūlaṁ vā, yaṁ tumhe nādhivāseyyāthā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không.”
“No hetaṁ, bhante”.
“Chư Tỷ-kheo, do vậy, hãy luôn luôn suy tư lời dạy ví như cái cưa này,
“Tasmātiha, bhikkhave, imaṁ kakacūpamaṁ ovādaṁ abhikkhaṇaṁ manasikarotha.
và các ông sẽ được hạnh phúc an lạc lâu ngày.”
Taṁ vo bhavissati dīgharattaṁ hitāya sukhāyā”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṁ abhinandunti.
Kakacūpamasuttaṁ niṭṭhitaṁ paṭhamaṁ.