Kinh Trung Bộ 128
Majjhima Nikāya 128
Phẩm Tánh Không
Suññatavagga
Kinh Tuỳ Phiền Não
Upakkilesasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời Thế Tôn ở Kosambī (Kiều-thưởng-di), tại tịnh xá Ghosita (Cu-sư-la).
ekaṁ samayaṁ bhagavā kosambiyaṁ viharati ghositārāme.
Lúc bấy giờ các Tỷ-kheo ở Kosambī sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi.
Tena kho pana samayena kosambiyaṁ bhikkhū bhaṇḍanajātā kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṁ mukhasattīhi vitudantā viharanti.
Rồi một Tỷ-kheo đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhito kho so bhikkhu bhagavantaṁ etadavoca:
“Ở đây, bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo ở Kosambī, sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi.
“idha, bhante, kosambiyaṁ bhikkhū bhaṇḍanajātā kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṁ mukhasattīhi vitudantā viharanti.
Tốt lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn, đến các Tỷ-kheo ấy.”
Sādhu, bhante, bhagavā yena te bhikkhū tenupasaṅkamatu anukampaṁ upādāyā”ti.
Thế Tôn im lặng nhận lời.
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
Rồi Thế Tôn đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến liền nói với họ:
Atha kho bhagavā yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te bhikkhū etadavoca:
“Thôi vừa rồi, các Tỷ-kheo! Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh nhau!”
“alaṁ, bhikkhave, mā bhaṇḍanaṁ, mā kalahaṁ, mā viggahaṁ, mā vivādan”ti.
Khi nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là bậc Pháp Chủ, hãy dừng lại! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có nhọc lòng!
“āgametu, bhante. Bhagavā dhammassāmī;
Thế Tôn hãy an trú, chú tâm và hiện tại lạc trú!
appossukko, bhante, bhagavā diṭṭhadhammasukhavihāraṁ anuyutto viharatu;
Vì rằng chúng con chịu trách nhiệm về sự cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh này.”
mayametena bhaṇḍanena kalahena viggahena vivādena paññāyissāmā”ti.
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo ấy:
Dutiyampi kho bhagavā te bhikkhū etadavoca:
“Thôi vừa rồi, này các Tỷ-kheo! Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh nhau!”
“alaṁ, bhikkhave, mā bhaṇḍanaṁ, mā kalahaṁ, mā viggahaṁ, mā vivādan”ti.
Lần thứ hai, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Dutiyampi kho so bhikkhu bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là bậc Pháp Chủ, hãy dừng lại! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có nhọc lòng!
“āgametu, bhante. Bhagavā dhammassāmī;
Thế Tôn hãy an trú, chú tâm và hiện tại lạc trú!
appossukko, bhante, bhagavā diṭṭhadhammasukhavihāraṁ anuyutto viharatu;
Vì rằng chúng con chịu trách nhiệm về sự cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh này.”
mayametena bhaṇḍanena kalahena viggahena vivādena paññāyissāmā”ti.
Lần thứ ba, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo ấy:
Tatiyampi kho bhagavā te bhikkhū etadavoca:
“Thôi vừa rồi, này các Tỷ-kheo! Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh nhau!”
“alaṁ, bhikkhave, mā bhaṇḍanaṁ, mā kalahaṁ, mā viggahaṁ, mā vivādan”ti.
Lần thứ ba, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Tatiyampi kho so bhikkhu bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là bậc Pháp Chủ, hãy dừng lại! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có nhọc lòng!
“āgametu, bhante. Bhagavā dhammassāmī;
Thế Tôn hãy an trú, chú tâm vào hiện tại lạc trú!
appossukko, bhante, bhagavā diṭṭhadhammasukhavihāraṁ anuyutto viharatu;
Vì rằng chúng con chịu trách nhiệm về sự cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh này.”
mayametena bhaṇḍanena kalahena viggahena vivādena paññāyissāmā”ti.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát và đi vào Kosambī để khất thực.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya kosambiṁ piṇḍāya pāvisi.
Sau khi đi khất thực ở Kosambī, ăn xong, trên con đường khi khất thực trở về, sau khi dọn dẹp chỗ nằm, lấy y bát, Ngài đứng và nói bài kệ:
Kosambiyaṁ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto senāsanaṁ saṁsāmetvā pattacīvaramādāya ṭhitakova imā gāthā abhāsi:
“Tất cả cùng tranh luận,
Không ai nghĩ mình ngu,
Giữa Tăng Chúng phân ly,
Có ai nghĩ hướng thượng?
“Puthusaddo samajano,
na bālo koci maññatha;
Saṅghasmiṁ bhijjamānasmiṁ,
nāññaṁ bhiyyo amaññaruṁ.
Người không có chánh niệm,
Nói như lời Bậc Trí,
Nghĩa lý không hiểu sâu,
Miệng lưỡi nói tuỳ thích,
Bởi không biết rõ ràng,
Mình cũng không thấu hiểu.
Parimuṭṭhā paṇḍitābhāsā,
vācāgocarabhāṇino;
Yāvicchanti mukhāyāmaṁ,
yena nītā na taṁ vidū.
Ta bị chửi, bị đánh,
Ta bị cướp, bị hại,
Cả ta và cả người,
Ai ôm hận thù ấy,
Hận thù không thể nguôi.
Akkocchi maṁ avadhi maṁ,
ajini maṁ ahāsi me;
Ye ca taṁ upanayhanti,
veraṁ tesaṁ na sammati.
Ta bị chửi, bị đánh,
Ta bị cướp, bị hại,
Cả ta và cả người,
Không ôm oán niệm ấy,
Hận thù sẽ tự nguôi.
Akkocchi maṁ avadhi maṁ,
ajini maṁ ahāsi me;
Ye ca taṁ nupanayhanti,
veraṁ tesūpasammati.
Bởi không mang hận thù,
Người ấy luôn luôn sống,
Bình an không thù hận,
Đây là pháp bất diệt.
Na hi verena verāni,
sammantīdha kudācanaṁ;
Averena ca sammanti,
esa dhammo sanantano.
Người khác không hiểu biết,
Ở đây, chúng ta chết,
Nhưng ở đây, ai hiểu,
Rồi tranh luận tự nguôi.
Pare ca na vijānanti,
mayamettha yamāmase;
Ye ca tattha vijānanti,
tato sammanti medhagā.
Sát hại, bẻ gãy xương,
Trộm bò, ngựa, của cải,
Cướp bóc chiếm quốc độ,
Họ còn đi cùng nhau,
Sao các ngươi không thể?
Aṭṭhicchinnā pāṇaharā,
gavassadhanahārino;
Raṭṭhaṁ vilumpamānānaṁ,
tesampi hoti saṅgati;
Kasmā tumhākaṁ no siyā.
Nếu có bạn đồng hành,
Thông minh và trí tuệ,
Cùng đi, sống thanh tịnh,
An ổn, vượt hiểm nguy,
Sống hoan hỷ, chánh niệm.
Sace labhetha nipakaṁ sahāyaṁ,
Saddhiṁ caraṁ sādhuvihāri dhīraṁ;
Abhibhuyya sabbāni parissayāni,
Careyya tenattamano satīmā.
Nếu không gặp bạn trí,
Đồng hành, sống thanh tịnh,
Như Vua rời quốc độ,
Sống viễn ly một mình,
Như Voi sống rừng sâu.
No ce labhetha nipakaṁ sahāyaṁ,
Saddhiṁ caraṁ sādhuvihāri dhīraṁ;
Rājāva raṭṭhaṁ vijitaṁ pahāya,
Eko care mātaṅgaraññeva nāgo.
Tốt hơn, sống một mình,
Không làm bạn kẻ ngu,
Viễn ly không làm ác,
Thoải mái như Voi rừng.”
Ekassa caritaṁ seyyo,
Natthi bāle sahāyatā;
Eko care na ca pāpāni kayirā,
Appossukko mātaṅgaraññeva nāgo”ti.
Rồi Thế Tôn đứng nói lên những câu kệ này, rồi đi đến làng của những đứa trẻ khai thác muối.
Atha kho bhagavā ṭhitakova imā gāthā bhāsitvā yena bālakaloṇakāragāmo tenupasaṅkami.
Khi ấy, Tôn giả Bhagu sống ở trong làng của những đứa trẻ khai thác muối.
Tena kho pana samayena āyasmā bhagu bālakaloṇakāragāme viharati.
Tôn giả Bhagu thấy Thế Tôn từ xa đi đến, liền sắp đặt chỗ ngồi và nước rửa chân.
Addasā kho āyasmā bhagu bhagavantaṁ dūratova āgacchantaṁ. Disvāna āsanaṁ paññapesi udakañca pādānaṁ dhovanaṁ.
Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn; sau khi ngồi, Ngài rửa chân.
Nisīdi bhagavā paññatte āsane. Nisajja pāde pakkhālesi.
Tôn giả Bhagu đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
Āyasmāpi kho bhagu bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.
Thế Tôn nói với Tôn giả Bhagu đang ngồi một bên:
Ekamantaṁ nisinnaṁ kho āyasmantaṁ bhaguṁ bhagavā etadavoca:
“Này Tỷ-kheo, có được an lành không? Có được sống yên vui không? Ði khất thực, có khỏi mệt nhọc không?”
“kacci, bhikkhu, khamanīyaṁ, kacci yāpanīyaṁ, kacci piṇḍakena na kilamasī”ti?
“Bạch Thế Tôn, con được an lành. Bạch Thế Tôn, con sống yên vui. Bạch Thế Tôn, con đi khất thực khỏi có mệt nhọc.”
“Khamanīyaṁ bhagavā, yāpanīyaṁ bhagavā, na cāhaṁ, bhante, piṇḍakena kilamāmī”ti.
Rồi Thế Tôn sau khi với thời thuyết pháp khích lệ Tôn giả Bhagu, làm cho hân hoan, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Vườn Tre Phía Đông.
Atha kho bhagavā āyasmantaṁ bhaguṁ dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṁsetvā uṭṭhāyāsanā yena pācīnavaṁsadāyo tenupasaṅkami.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Anuruddha (A-na-luật), Tôn giả Nandiya (Nan-đề) và Tôn giả Kimbila (Kim-ty-la) trú ở Pacinavamasadaya.
Tena kho pana samayena āyasmā ca anuruddho āyasmā ca nandiyo āyasmā ca kimilo pācīnavaṁsadāye viharanti.
Người giữ vườn thấy Thế Tôn từ xa đi đến, khi thấy vậy liền bạch Thế Tôn:
Addasā kho dāyapālo bhagavantaṁ dūratova āgacchantaṁ. Disvāna bhagavantaṁ etadavoca:
“Này Sa-môn, chớ có vào khu vườn này.
“mā, mahāsamaṇa, etaṁ dāyaṁ pāvisi.
Có ba Thiện gia nam tử, rất ái luyến tự ngã (attakamanipa) trú tại đây.
Santettha tayo kulaputtā attakāmarūpā viharanti.
Chớ có phiền nhiễu các vị ấy.”
Mā tesaṁ aphāsumakāsī”ti.
Tôn giả Anuruddha nghe người giữ khu vườn nói chuyện với Thế Tôn, liền nói với người giữ vườn:
Assosi kho āyasmā anuruddho dāyapālassa bhagavatā saddhiṁ mantayamānassa. Sutvāna dāyapālaṁ etadavoca:
“Này Người giữ vườn, chớ có ngăn chặn Thế Tôn! Thế Tôn là bậc Ðạo sư của chúng tôi đã đến.”
“mā, āvuso dāyapāla, bhagavantaṁ vāresi. Satthā no bhagavā anuppatto”ti.
Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila và nói:
Atha kho āyasmā anuruddho yenāyasmā ca nandiyo yenāyasmā ca kimilo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantañca nandiyaṁ āyasmantañca kimilaṁ etadavoca:
“Chư Tôn giả hãy đến! Chư Tôn giả hãy đến! Thế Tôn, bậc Ðạo sư của chúng ta đã đến.”
“abhikkamathāyasmanto, abhikkamathāyasmanto, satthā no bhagavā anuppatto”ti.
Rồi Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila ra đón Thế Tôn, một người cầm y bát Thế Tôn, một người sửa soạn chỗ ngồi, một người đặt sẵn nước rửa chân.
Atha kho āyasmā ca anuruddho āyasmā ca nandiyo āyasmā ca kimilo bhagavantaṁ paccuggantvā eko bhagavato pattacīvaraṁ paṭiggahesi, eko āsanaṁ paññapesi, eko pādodakaṁ upaṭṭhapesi.
Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn; sau khi ngồi, Thế Tôn rửa chân.
Nisīdi bhagavā paññatte āsane. Nisajja pāde pakkhālesi.
Rồi các Tôn giả ấy đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Anuruddha đang ngồi xuống một bên:
Tepi kho āyasmanto bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu.
Thế Tôn nói với Tôn giả Anuruddha đang ngồi một bên:
Ekamantaṁ nisinnaṁ kho āyasmantaṁ anuruddhaṁ bhagavā etadavoca:
Này các Anuruddha, các Ông có được an lành không? Có được sống yên vui không? Ði khất thực có khỏi mệt nhọc không?
“kacci vo, anuruddhā, khamanīyaṁ, kacci yāpanīyaṁ, kacci piṇḍakena na kilamathā”ti?
“Bạch Thế Tôn, chúng con được an lành. Bạch Thế Tôn, chúng con sống yên vui. Bạch Thế Tôn, chúng con đi khất thực khỏi có mệt nhọc.”
“Khamanīyaṁ bhagavā, yāpanīyaṁ bhagavā, na ca mayaṁ, bhante, piṇḍakena kilamāmā”ti.
“Này các Anuruddha, các Ông có sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau. Như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm không?”
“Kacci pana vo, anuruddhā, samaggā sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṁ piyacakkhūhi sampassantā viharathā”ti?
“Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm.”
“Taggha mayaṁ, bhante, samaggā sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṁ piyacakkhūhi sampassantā viharāmā”ti.
“Này các Anuruddha, như thế nào các Ông sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm?”
“Yathā kathaṁ pana tumhe, anuruddhā, samaggā sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṁ piyacakkhūhi sampassantā viharathā”ti?
“Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con nghĩ như sau:
“Idha mayhaṁ, bhante, evaṁ hoti:
‘Thật lợi ích thay cho ta! Thật khéo lợi ích thay cho ta, khi ta được sống với các đồng Phạm hạnh như vậy!’
‘lābhā vata me, suladdhaṁ vata me yohaṁ evarūpehi sabrahmacārīhi saddhiṁ viharāmī’ti.
Bạch Thế Tôn, do vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh này, con khởi lên từ thân nghiệp, trước mặt và sau lưng; con khởi lên từ khẩu nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp, trước mặt và sau lưng.
Tassa mayhaṁ, bhante, imesu āyasmantesu mettaṁ kāyakammaṁ paccupaṭṭhitaṁ āvi ceva raho ca, mettaṁ vacīkammaṁ paccupaṭṭhitaṁ āvi ceva raho ca, mettaṁ manokammaṁ paccupaṭṭhitaṁ āvi ceva raho ca.
Bạch Thế Tôn, do vậy chúng con nghĩ như sau:
Tassa, mayhaṁ, bhante, evaṁ hoti:
‘Ta hãy từ bỏ tâm của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn giả này’.
‘yannūnāhaṁ sakaṁ cittaṁ nikkhipitvā imesaṁyeva āyasmantānaṁ cittassa vasena vatteyyan’ti.
Và bạch Thế Tôn, con từ bỏ tâm của con, và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy.
So kho ahaṁ, bhante, sakaṁ cittaṁ nikkhipitvā imesaṁyeva āyasmantānaṁ cittassa vasena vattāmi.
Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm.”
Nānā hi kho no, bhante, kāyā, ekañca pana maññe cittan”ti.
Rồi Tôn giả Nandiya …
Āyasmāpi kho nandiyo …pe…
Rồi Tôn giả Kimbila bạch Thế Tôn:
āyasmāpi kho kimilo bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con nghĩ như sau:
“mayhampi kho, bhante, evaṁ hoti:
‘Thật lợi ích thay cho ta! Thật khéo lợi ích thay cho ta, khi ta được sống với các vị đồng Phạm hạnh như vậy!’
‘lābhā vata me, suladdhaṁ vata me yohaṁ evarūpehi sabrahmacārīhi saddhiṁ viharāmī’ti.
Bạch Thế Tôn, do vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh này, con khởi lên từ thân nghiệp, trước mặt và sau lưng; con khởi lên từ khẩu nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp, trước mặt và sau lưng.
Tassa mayhaṁ, bhante, imesu āyasmantesu mettaṁ kāyakammaṁ paccupaṭṭhitaṁ āvi ceva raho ca, mettaṁ vacīkammaṁ paccupaṭṭhitaṁ āvi ceva raho ca, mettaṁ manokammaṁ paccupaṭṭhitaṁ āvi ceva raho ca.
Bạch Thế Tôn, do vậy chúng con nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, bhante, evaṁ hoti:
‘Ta hãy từ bỏ tâm của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn giả này’.
‘yannūnāhaṁ sakaṁ cittaṁ nikkhipitvā imesaṁyeva āyasmantānaṁ cittassa vasena vatteyyan’ti.
Và bạch Thế Tôn, con từ bỏ tâm của con và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy.
So kho ahaṁ, bhante, sakaṁ cittaṁ nikkhipitvā imesaṁyeva āyasmantānaṁ cittassa vasena vattāmi.
Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm.
Nānā hi kho no, bhante, kāyā, ekañca pana maññe cittanti.
Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm.”
Evaṁ kho mayaṁ, bhante, samaggā sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṁ piyacakkhūhi sampassantā viharāmā”ti.
“Lành thay, lành thay, này các Anuruddha!
“Sādhu sādhu, anuruddhā.
Và này các Anuruddha, các Ông có sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần không?”
Kacci pana vo, anuruddhā, appamattā ātāpino pahitattā viharathā”ti?
“Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.”
“Taggha mayaṁ, bhante, appamattā ātāpino pahitattā viharāmā”ti.
“Này các Anuruddha, như thế nào, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần?”
“Yathā kathaṁ pana tumhe, anuruddhā, appamattā ātāpino pahitattā viharathā”ti?
“Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con ai đi vào làng khất thực về trước, người ấy sắp đặt các chỗ ngồi, soạn sẵn nước uống, nước rửa chân, soạn sẵn một bát để bỏ đồ dư.
“Idha, bhante, amhākaṁ yo paṭhamaṁ gāmato piṇḍāya paṭikkamati, so āsanāni paññapeti, pānīyaṁ paribhojanīyaṁ upaṭṭhāpeti, avakkārapātiṁ upaṭṭhāpeti.
Ai đi vào làng khất thực về sau, người ấy, còn đồ ăn để lại, nếu muốn thì ăn, nếu không muốn thời bỏ vào chỗ không có cỏ xanh hay đổ vào nước không có loài côn trùng.
Yo pacchā gāmato piṇḍāya paṭikkamati—sace hoti bhuttāvaseso, sace ākaṅkhati, bhuñjati; no ce ākaṅkhati, appaharite vā chaḍḍeti apāṇake vā udake opilāpeti—
Người ấy xếp dọn lại các chỗ ngồi, cất đi nước uống, nước rửa chân, cất đi cái bát để bỏ đồ dư và quét sạch nhà ăn.
so āsanāni paṭisāmeti, pānīyaṁ paribhojanīyaṁ paṭisāmeti, avakkārapātiṁ dhovitvā paṭisāmeti, bhattaggaṁ sammajjati.
Ai thấy ghè nước uống, ghè nước rửa chân, hay ghè nước trong nhà cầu hết nước trống không, người ấy sẽ lo liệu (nước).
Yo passati pānīyaghaṭaṁ vā paribhojanīyaghaṭaṁ vā vaccaghaṭaṁ vā rittaṁ tucchaṁ so upaṭṭhāpeti.
Nếu làm không nỗi với sức bàn tay của mình, người ấy dùng tay ra hiệu gọi người thứ hai: “Chúng ta hãy lo liệu (nước)”. Dầu vậy, bạch Thế Tôn, chúng con không vì vậy gây ra tiếng động.
Sacassa hoti avisayhaṁ, hatthavikārena dutiyaṁ āmantetvā hatthavilaṅghakena upaṭṭhāpema, na tveva mayaṁ, bhante, tappaccayā vācaṁ bhindāma.
Và đến ngày thứ năm, bạch Thế Tôn, suốt cả một đêm chúng con ngồi đàm luận về đạo pháp.
Pañcāhikaṁ kho pana mayaṁ, bhante, sabbarattiṁ dhammiyā kathāya sannisīdāma.
Như vậy, bạch Thế Tôn, chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.”
Evaṁ kho mayaṁ, bhante, appamattā ātāpino pahitattā viharāmā”ti.
“Lành thay, lành thay, này các Anurudda!
“Sādhu sādhu, anuruddhā.
Này các Anuruddha, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, các Ông có chứng được pháp thượng nhân tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, sống thoải mái an lạc không?”
Atthi pana vo, anuruddhā, evaṁ appamattānaṁ ātāpīnaṁ pahitattānaṁ viharataṁ uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāro”ti?
“Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, chúng con nhận thấy được hào quang, cũng như sự hiện khởi các sắc pháp.
“Idha mayaṁ, bhante, appamattā ātāpino pahitattā viharantā obhāsañceva sañjānāma dassanañca rūpānaṁ.
Nhưng hào quang ấy không bao lâu biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
So kho pana no obhāso nacirasseva antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ;
Chúng con không được hiểu rõ tướng ấy là gì.”
tañca nimittaṁ nappaṭivijjhāmā”ti.
“Này các Anuruddha, tướng ấy các Ông cần phải hiểu rõ.
“Taṁ kho pana vo, anuruddhā, nimittaṁ paṭivijjhitabbaṁ.
Ta cũng vậy, này các Anuruddha, trước khi giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta nhận thấy hào quang và sự hiện khởi các sắc pháp.
Ahampi sudaṁ, anuruddhā, pubbeva sambodhā anabhisambuddho bodhisattova samāno obhāsañceva sañjānāmi dassanañca rūpānaṁ.
Nhưng hào quang ấy không bao lâu biến mất nơi Ta cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
So kho pana me obhāso nacirasseva antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Do nhân gì, do duyên gì hào quang biến mất đối với Ta, cùng với sự hiện khởi các sắc pháp?’
‘ko nu kho hetu ko paccayo yena me obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānan’ti?
Này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Nghi hoặc khởi lên nơi Ta. Vì có nghi hoặc nên định của Ta bị biến diệt;
‘vicikicchā kho me udapādi, vicikicchādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
khi định biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta sẽ phải làm thế nào để nghi hoặc không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissatī’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy được hào quang cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
So kho ahaṁ, anuruddhā, appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañceva sañjānāmi dassanañca rūpānaṁ.
Nhưng hào quang ấy không bao lâu biến mất nơi Ta, cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
So kho pana me obhāso nacirasseva antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Do nhân gì, do duyên gì, hào quang biến mất nơi Ta, cùng với sự hiện khởi của các sắc pháp?’
‘ko nu kho hetu ko paccayo yena me obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānan’ti?
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Không tác ý khởi lên nơi Ta. Vì không có tác ý, nên định bị biến diệt nơi Ta;
‘amanasikāro kho me udapādi, amanasikārādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm như thế nào để nghi hoặc và không tác ý không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật…
So kho ahaṁ, anuruddhā …pe…
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Hôn trầm, thụy miên, khởi lên nơi Ta. Vì có hôn trầm, thụy miên nên định của Ta bị biến diệt;
‘thinamiddhaṁ kho me udapādi, thinamiddhādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm như thế nào để nghi hoặc, không tác ý và hôn trầm, thụy miên không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhan’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật…
So kho ahaṁ, anuruddhā …pe…
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Sự sợ hãi khởi lên nơi Ta. Vì có sợ hãi, nên định bị biến diệt nơi Ta;
‘chambhitattaṁ kho me udapādi, chambhitattādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Ví như, này các Anuruddha, một người đang đi trên con đường, có kẻ giết người nhảy đến (công kích) từ hai phía. Do nhân duyên từ hai phía, người ấy khởi lên sợ hãi.
Seyyathāpi, anuruddhā, puriso addhānamaggappaṭipanno, tassa ubhatopasse vaṭṭakā uppateyyuṁ, tassa tatonidānaṁ chambhitattaṁ uppajjeyya;
Cũng vậy, này các Anuruddha, sợ hãi khởi lên nơi Ta. Vì có sợ hãi, nên định bị biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
evameva kho me, anuruddhā, chambhitattaṁ udapādi, chambhitattādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác ý, hôn trầm, thụy miên và sự sợ hãi không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṁ, na chambhitattan’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật…
So kho ahaṁ, anuruddhā …pe…
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Sự phấn chấn (ubbilla) khởi lên nơi Ta. Vì có sự phấn chấn, nên định bị biến diệt nơi Ta;
‘uppilaṁ kho me udapādi, uppilādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Ví như, này các Anuruddha, một người đi tìm cửa miệng một kho tàng, và trong một lần tìm được năm cửa miệng kho tàng, do nhân duyên này phấn chấn khởi lên.
Seyyathāpi, anuruddhā, puriso ekaṁ nidhimukhaṁ gavesanto sakideva pañcanidhimukhāni adhigaccheyya, tassa tatonidānaṁ uppilaṁ uppajjeyya;
Cũng vậy, này các Anuruddha, phấn chấn khởi lên nơi Ta. Vì có phấn chấn nên định bị biến diệt nơi Ta;
evameva kho me, anuruddhā, uppilaṁ udapādi, uppilādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
khi định bị biến diệt mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm thế nào, để nghi hoặc, không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi và sự phấn chấn không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṁ, na chambhitattaṁ, na uppilan’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật…
So kho ahaṁ, anuruddhā …pe…
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Tâm khó chịu khởi lên nơi Ta. Vì có tâm khó chịu, nên định bị biến diệt nơi Ta;
‘duṭṭhullaṁ kho me udapādi, duṭṭhullādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi, phấn chấn, tâm khó chịu không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṁ, na chambhitattaṁ, na uppilaṁ, na duṭṭhullan’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật … Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
So kho ahaṁ, anuruddhā …pe… tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Sự tinh cần quá độ khởi lên nơi Ta, và vì có tinh cần quá độ, nên định lực biến diệt nơi Ta;
‘accāraddhavīriyaṁ kho me udapādi, accāraddhavīriyādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Ví như, này các Anuruddha, một người với hai tay bắt nắm quá chặt một con chim cáy khiến con chim chết liền tại chỗ.
Seyyathāpi, anuruddhā, puriso ubhohi hatthehi vaṭṭakaṁ gāḷhaṁ gaṇheyya, so tattheva patameyya;
Cũng vậy, này các Anuruddha, tinh cần quá độ khởi lên nơi Ta. Vì có tinh cần quá độ … cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
evameva kho me, anuruddhā, accāraddhavīriyaṁ udapādi, accāraddhavīriyādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi, phấn chấn, tâm khó chịu, và tinh cần quá độ không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṁ, na chambhitattaṁ, na uppilaṁ, na duṭṭhullaṁ, na accāraddhavīriyan’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật … Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
So kho ahaṁ, anuruddhā …pe… tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Tinh cần quá yếu đuối khởi lên nơi Ta. Vì có tinh cần quá yếu đuối, nên định biến diệt nơi Ta;
‘atilīnavīriyaṁ kho me udapādi, atilīnavīriyādhikaraṇañca pana me samādhi cavi.
khi định biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Ví như, này các Anuruddha, một người bắt một con chim cáy quá lỏng lẻo, con chim ấy bay khỏi hai tay của người ấy.
Seyyathāpi, anuruddhā, puriso vaṭṭakaṁ sithilaṁ gaṇheyya, so tassa hatthato uppateyya;
Cũng vậy, này các Anuruddha,… cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
evameva kho me, anuruddhā, atilīnavīriyaṁ udapādi, atilīnavīriyādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi, phấn chấn, tâm khó chịu, tinh cần quá độ và tinh cần quá yếu đuối không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṁ, na chambhitattaṁ, na uppilaṁ, na duṭṭhullaṁ, na accāraddhavīriyaṁ, na atilīnavīriyan’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật … Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
So kho ahaṁ, anuruddhā …pe… tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Ái dục khởi lên nơi Ta. Vì có ái dục … với sự hiện khởi các sắc pháp …
‘abhijappā kho me udapādi, abhijappādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác ý … tinh cần quá yếu đuối và ái dục không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṁ, na chambhitattaṁ, na uppilaṁ, na duṭṭhullaṁ, na accāraddhavīriyaṁ, na atilīnavīriyaṁ, na abhijappā’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật… Rồi này các Anuruddha, Ta nghĩ như sau:
So kho ahaṁ, anuruddhā …pe… tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Sai biệt tưởng khởi lên nơi Ta… cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
‘nānattasaññā kho me udapādi, nānattasaññādhikaraṇañca pana me samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc … ái dục và sai biệt tưởng không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṁ, na chambhitattaṁ, na uppilaṁ, na duṭṭhullaṁ, na accāraddhavīriyaṁ, na atilīnavīriyaṁ, na abhijappā, na nānattasaññā’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, và Ta nhận thấy được hào quang cùng với sự hiện khởi sắc pháp.
So kho ahaṁ, anuruddhā, appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañceva sañjānāmi dassanañca rūpānaṁ.
Những hào quang ấy không bao lâu biến mất nơi Ta cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
So kho pana me obhāso nacirasseva antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ anuruddhā etadahosi:
‘Do nhân gì, do duyên gì, hào quang biến mất nơi Ta cùng với sự hiện khởi các sắc pháp?’
‘ko nu kho hetu ko paccayo yena me obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānan’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Một trạng thái quá chú tâm vào các sắc pháp khởi lên nơi Ta … cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
‘atinijjhāyitattaṁ kho me rūpānaṁ udapādi, atinijjhāyitattādhikaraṇañca pana me rūpānaṁ samādhi cavi. Samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṁ.
Vậy Ta phải làm như thế nào để nghi hoặc …(như trên)… các tưởng sai biệt và trạng thái quá chú tâm vào các sắc pháp không khởi lên nơi Ta nữa’.
Sohaṁ tathā karissāmi yathā me puna na vicikicchā uppajjissati, na amanasikāro, na thinamiddhaṁ, na chambhitattaṁ, na uppilaṁ, na duṭṭhullaṁ, na accāraddhavīriyaṁ, na atilīnavīriyaṁ, na abhijappā, na nānattasaññā, na atinijjhāyitattaṁ rūpānan’ti.
Rồi này các Anuruddha, sau khi biết được nghi hoặc là một phiền não của tâm, Ta đoạn trừ nghi hoặc, phiền não của tâm;
So kho ahaṁ, anuruddhā, ‘vicikicchā cittassa upakkileso’ti—iti viditvā vicikicchaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được không tác ý là một phiền não của tâm, Ta đoạn trừ không tác ý, phiền não của tâm;
‘amanasikāro cittassa upakkileso’ti—iti viditvā amanasikāraṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được hôn trầm, thụy miên…
‘thinamiddhaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā thinamiddhaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được sợ hãi…
‘chambhitattaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā chambhitattaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được phấn chấn….
‘uppilaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā uppilaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được tâm khó chịu …
‘duṭṭhullaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā duṭṭhullaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được sự tinh cần quá độ…
‘accāraddhavīriyaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā accāraddhavīriyaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được sự tinh cần quá yếu đuối…
‘atilīnavīriyaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā atilīnavīriyaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được dục ái…
‘abhijappā cittassa upakkileso’ti—iti viditvā abhijappaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được tưởng sai biệt; …
‘nānattasaññā cittassa upakkileso’ti—iti viditvā nānattasaññaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ,
‘sau khi biết được trạng thái quá chú tâm đến sắc pháp là một phiền não của tâm’, Ta đoạn trừ trạng thái quá chú trọng vào các sắc pháp, một phiền não của tâm.
‘atinijjhāyitattaṁ rūpānaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā atinijjhāyitattaṁ rūpānaṁ cittassa upakkilesaṁ pajahiṁ.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy được hào quang nhưng Ta không thấy các sắc pháp cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày. Ta thấy các sắc pháp nhưng không nhận thấy hào quang.
So kho ahaṁ, anuruddhā, appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañhi kho sañjānāmi, na ca rūpāni passāmi; rūpāni hi kho passāmi, na ca obhāsaṁ sañjānāmi: ‘kevalampi rattiṁ, kevalampi divaṁ, kevalampi rattindivaṁ’.
Về vấn đề này, này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Do nhân gì, do duyên gì, Ta chỉ nhận thấy hào quang, nhưng không thấy sắc pháp: cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày?’ Ta chỉ thấy các sắc pháp nhưng không nhận thấy hào quang.
‘ko nu kho hetu ko paccayo yvāhaṁ obhāsañhi kho sañjānāmi na ca rūpāni passāmi; rūpāni hi kho passāmi na ca obhāsaṁ sañjānāmi— kevalampi rattiṁ, kevalampi divaṁ, kevalampi rattindivan’ti.
Về vấn đề này, này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Trong khi Ta không tác ý sắc tướng, nhưng có tác ý hào quang tướng, trong khi ấy ta nhận thấy hào quang, nhưng không thấy sắc pháp. Còn trong khi Ta không tác ý hào quang tướng, nhưng tác ý sắc tướng; trong khi ấy Ta thấy các sắc pháp, nhưng không nhận thấy hào quang, cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày’.
‘yasmiñhi kho ahaṁ samaye rūpanimittaṁ amanasikaritvā obhāsanimittaṁ manasi karomi, obhāsañhi kho tasmiṁ samaye sañjānāmi, na ca rūpāni passāmi. Yasmiṁ panāhaṁ samaye obhāsanimittaṁ amanasikaritvā rūpanimittaṁ manasi karomi, rūpāni hi kho tasmiṁ samaye passāmi na ca obhāsaṁ sañjānāmi—kevalampi rattiṁ, kevalampi divaṁ, kevalampi rattindivan’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy hào quang có hạn lượng và thấy được các sắc pháp có hạn lượng; nhận thấy hào quang vô lượng và nhận thấy được các sắc pháp vô lượng, cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày.
So kho ahaṁ, anuruddhā, appamatto ātāpī pahitatto viharanto parittañceva obhāsaṁ sañjānāmi, parittāni ca rūpāni passāmi; appamāṇañceva obhāsaṁ sañjānāmi, appamāṇāni ca rūpāni passāmi: ‘kevalampi rattiṁ, kevalampi divaṁ, kevalampi rattindivaṁ’.
Về vấn đề này, này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Do nhân gì, do duyên gì, Ta nhận thấy hào quang có hạn lượng và thấy các sắc pháp có hạn lượng; nhận thấy hào quang vô lượng và thấy được các sắc pháp vô lượng, cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày?’
‘ko nu kho hetu ko paccayo yvāhaṁ parittañceva obhāsaṁ sañjānāmi, parittāni ca rūpāni passāmi; appamāṇañceva obhāsaṁ sañjānāmi, appamāṇāni ca rūpāni passāmi—kevalampi rattiṁ, kevalampi divaṁ, kevalampi rattindivan’ti.
Về vấn đề này, này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Khi nào định có hạn lượng, khi ấy mắt của Ta có hạn lượng; với con mắt có hạn lượng ấy,
‘yasmiṁ kho me samaye paritto samādhi hoti, parittaṁ me tasmiṁ samaye cakkhu hoti.
Ta nhận thấy hào quang có hạn lượng và thấy sắc pháp có hạn lượng.
Sohaṁ parittena cakkhunā parittañceva obhāsaṁ sañjānāmi, parittāni ca rūpāni passāmi.
Nhưng khi nào định của Ta không hạn lượng, trong khi ấy mắt của Ta thành vô lượng,
Yasmiṁ pana me samaye appamāṇo samādhi hoti, appamāṇaṁ me tasmiṁ samaye cakkhu hoti.
và với con mắt vô lượng ấy, Ta nhận thấy hào quang vô lượng và thấy các sắc pháp vô lượng cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày’.
Sohaṁ appamāṇena cakkhunā appamāṇañceva obhāsaṁ sañjānāmi, appamāṇāni ca rūpāni passāmi—kevalampi rattiṁ, kevalampi divaṁ, kevalampi rattindivan’ti.
Này các Anuruddha, khi nào biết được nghi hoặc là một phiền não của tâm, thời nghi hoặc phiền não của tâm được đoạn trừ;
Yato kho me, anuruddhā, ‘vicikicchā cittassa upakkileso’ti—iti viditvā vicikicchā cittassa upakkileso pahīno ahosi,
‘khi nào biết được không tác ý là một phiền não của tâm’, thời không tác ý phiền não của tâm được đoạn trừ;
‘amanasikāro cittassa upakkileso’ti—iti viditvā amanasikāro cittassa upakkileso pahīno ahosi,
khi nào biết được hôn trầm, thụy miên…;
‘thinamiddhaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā thinamiddhaṁ cittassa upakkileso pahīno ahosi,
khi nào biết được sợ hãi… ;
‘chambhitattaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā chambhitattaṁ cittassa upakkileso pahīno ahosi,
khi nào biết được phấn chấn… ;
‘uppilaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā uppilaṁ cittassa upakkileso pahīno ahosi,
khi nào biết được tâm không thoải mái… ;
‘duṭṭhullaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā duṭṭhullaṁ cittassa upakkileso pahīno ahosi,
khi nào biết được tinh cần quá độ… ;
‘accāraddhavīriyaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā accāraddhavīriyaṁ cittassa upakkileso pahīno ahosi,
khi nào biết được sự tinh cần quá yếu đuối… ;
‘atilīnavīriyaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā atilīnavīriyaṁ cittassa upakkileso pahīno ahosi,
khi nào biết được dục ái… ;
‘abhijappā cittassa upakkileso’ti—iti viditvā abhijappā cittassa upakkileso pahīno ahosi,
khi nào biết được tưởng sai biệt… ;
‘nānattasaññā cittassa upakkileso’ti—iti viditvā nānattasaññā cittassa upakkileso pahīno ahosi,
khi nào biết được trạng thái quá chú tâm đến các sắc pháp là một phiền não của tâm, thời trạng thái quá chú tâm đến các sắc pháp phiền não của tâm được đoạn trừ.
‘atinijjhāyitattaṁ rūpānaṁ cittassa upakkileso’ti—iti viditvā atinijjhāyitattaṁ rūpānaṁ cittassa upakkileso pahīno ahosi.
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, anuruddhā, etadahosi:
‘Những phiền não tâm của Ta đã được đoạn trừ.
‘ye kho me cittassa upakkilesā te me pahīnā.
Nay Ta tu tập ba loại định’.
Handa dānāhaṁ tividhena samādhiṁ bhāvemī’ti.
Rồi này các Anuruddha, Ta tu tập định có tầm, có tứ; Ta tu tập định không có tầm, chỉ có tứ; Ta tu tập định không tầm, không tứ; Ta tu tập định có hỷ; Ta tu tập định không có hỷ; Ta tu tập định câu hữu với lạc; Ta tu tập định câu hữu với xả.
So kho ahaṁ, anuruddhā, savitakkampi savicāraṁ samādhiṁ bhāvesiṁ, avitakkampi vicāramattaṁ samādhiṁ bhāvesiṁ, avitakkampi avicāraṁ samādhiṁ bhāvesiṁ, sappītikampi samādhiṁ bhāvesiṁ, nippītikampi samādhiṁ bhāvesiṁ, sātasahagatampi samādhiṁ bhāvesiṁ, upekkhāsahagatampi samādhiṁ bhāvesiṁ.
Này các Anuruddha, khi nào Ta tu tập định có tầm, có tứ; khi nào Ta tu tập định không tầm, chỉ có tứ; khi nào Ta tu tập định không có tầm, không có tứ; khi nào Ta tu tập định có hỷ; khi nào Ta tu tập định không có hỷ; khi nào Ta tu tập định câu hữu với xả,
Yato kho me, anuruddhā, savitakkopi savicāro samādhi bhāvito ahosi, avitakkopi vicāramatto samādhi bhāvito ahosi, avitakkopi avicāro samādhi bhāvito ahosi, sappītikopi samādhi bhāvito ahosi, nippītikopi samādhi bhāvito ahosi, sātasahagatopi samādhi bhāvito ahosi, upekkhāsahagatopi samādhi bhāvito ahosi.
thời tri kiến khởi lên nơi Ta:
Ñāṇañca pana me dassanaṁ udapādi,
Giải thoát của Ta là bất động, đây là đời sống cuối cùng của Ta, nay không còn hiện hữu”.
akuppā me cetovimutti. Ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Anuruddha hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamano āyasmā anuruddho bhagavato bhāsitaṁ abhinandīti.
Upakkilesasuttaṁ niṭṭhitaṁ aṭṭhamaṁ.