WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 48.40 Không Theo Quy Tắc

Kinh Tương Ưng 48.40
Saṁyutta Nikāya 48.40

4. Phẩm Lạc Căn
4. Sukhindriyavagga

Không Theo Quy Tắc
Uppaṭipāṭikasutta

“Này các Tỷ-kheo, có năm căn này.
“Pañcimāni, bhikkhave, indriyāni.

Thế nào là năm?
Katamāni pañca?

Khổ căn, ưu căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn.
Dukkhindriyaṁ, domanassindriyaṁ, sukhindriyaṁ, somanassindriyaṁ, upekkhindriyaṁ.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên khổ căn,
Idha, bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato uppajjati dukkhindriyaṁ.

vị ấy rõ biết như vầy:
So evaṁ pajānāti:

‘Khổ căn này khởi lên nơi ta. Và khổ căn ấy có tướng, có nhân, có hành, có duyên.
‘uppannaṁ kho me idaṁ dukkhindriyaṁ, tañca kho sanimittaṁ sanidānaṁ sasaṅkhāraṁ sappaccayaṁ.

Và khổ căn ấy không tướng, không nhân, không hành, không duyên sẽ khởi lên’; sự kiện như vậy không xảy ra.
Tañca animittaṁ anidānaṁ asaṅkhāraṁ appaccayaṁ dukkhindriyaṁ uppajjissatī’ti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.

Và vị ấy rõ biết khổ căn, rõ biết khổ căn tập khởi, rõ biết khổ căn đoạn diệt. Từ chỗ nào, khổ căn khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn, vị ấy rõ biết khổ căn ấy.
So dukkhindriyañca pajānāti, dukkhindriyasamudayañca pajānāti, dukkhindriyanirodhañca pajānāti, yattha cuppannaṁ dukkhindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati tañca pajānāti.

Và tại chỗ nào khổ căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn?
Kattha cuppannaṁ dukkhindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Idha, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṁ savicāraṁ vivekajaṁ pītisukhaṁ paṭhamaṁ jhānaṁ upasampajja viharati,

Ở đây, khổ căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn.
ettha cuppannaṁ dukkhindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo biết rõ sự đoạn diệt của khổ căn, tập trung tâm để đạt tới điều kiện ấy.
Ayaṁ vuccati, bhikkhave, ‘bhikkhu aññāsi dukkhindriyassa nirodhaṁ, tadatthāya cittaṁ upasaṁharati’.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên ưu căn,
Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato uppajjati domanassindriyaṁ.

vị ấy rõ biết như vầy:
So evaṁ pajānāti:

‘Trong ta khởi lên ưu căn này. Và ưu căn ấy có tướng, có nhân, có hành, có duyên.
‘uppannaṁ kho me idaṁ domanassindriyaṁ, tañca kho sanimittaṁ sanidānaṁ sasaṅkhāraṁ sappaccayaṁ.

Và ưu căn ấy có thể khởi lên, không tướng, không nhân, không hành, không duyên’; sự kiện như vậy không xảy ra.
tañca animittaṁ anidānaṁ asaṅkhāraṁ appaccayaṁ domanassindriyaṁ uppajjissatī’ti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.

Và vị ấy rõ biết ưu căn, rõ biết ưu căn tập khởi, rõ biết ưu căn đoạn diệt. Từ chỗ nào, ưu căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn, vị ấy rõ biết ưu căn ấy.
So domanassindriyañca pajānāti, domanassindriyasamudayañca pajānāti, domanassindriyanirodhañca pajānāti, yattha cuppannaṁ domanassindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati tañca pajānāti.

Và tại chỗ nào ưu căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn?
Kattha cuppannaṁ domanassindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ tầmtứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhứt tâm.
Idha, bhikkhave, bhikkhu vitakkavicārānaṁ vūpasamā ajjhattaṁ sampasādanaṁ cetaso ekodibhāvaṁ avitakkaṁ avicāraṁ samādhijaṁ pītisukhaṁ dutiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati,

Và ở đây, ưu căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn.
ettha cuppannaṁ domanassindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ‘Tỷ-kheo biết rõ sự đoạn diệt của ưu căn, tập trung tâm để đạt tới điều kiện ấy’.
Ayaṁ vuccati, bhikkhave, ‘bhikkhu aññāsi domanassindriyassa nirodhaṁ, tadatthāya cittaṁ upasaṁharati’.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên lạc căn;
Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato uppajjati sukhindriyaṁ.

vị ấy rõ biết như vầy:
So evaṁ pajānāti:

‘Lạc căn này khởi lên nơi ta. Lạc căn ấy có tướng, có nhân, có hành, có duyên.
‘uppannaṁ kho me idaṁ sukhindriyaṁ, tañca kho sanimittaṁ sanidānaṁ sasaṅkhāraṁ sappaccayaṁ.

Và lạc căn ấy không tướng, không nhân, không hành, không duyên có thể khởi lên; sự kiện như vậy không xảy ra.
tañca animittaṁ anidānaṁ asaṅkhāraṁ appaccayaṁ sukhindriyaṁ uppajjissatī’ti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.

Và vị ấy rõ biết lạc căn, rõ biết lạc căn tập khởi, rõ biết lạc căn đoạn diệt. Từ chỗ nào, lạc căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn, vị ấy rõ biết lạc căn ấy.
So sukhindriyañca pajānāti, sukhindriyasamudayañca pajānāti, sukhindriyanirodhañca pajānāti, yattha cuppannaṁ sukhindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati tañca pajānāti.

Và tại chỗ nào lạc căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn?
Kattha cuppannaṁ sukhindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.
Idha, bhikkhave, bhikkhu pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati sato ca sampajāno sukhañca kāyena paṭisaṁvedeti yaṁ taṁ ariyā ācikkhanti ‘upekkhako satimā sukhavihārī’ti tatiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati,

Ở đây, lạc căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn.
ettha cuppannaṁ sukhindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ‘Tỷ-kheo biết rõ sự đoạn diệt của lạc căn, tập trung tâm để đạt tới điều kiện ấy’.
Ayaṁ vuccati, bhikkhave, ‘bhikkhu aññāsi sukhindriyassa nirodhaṁ, tadatthāya cittaṁ upasaṁharati’.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên hỷ căn;
Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato uppajjati somanassindriyaṁ.

vị ấy rõ biết như sau:
So evaṁ pajānāti:

‘Hỷ căn này khởi lên nơi ta. Và hỷ căn ấy có tướng, có nhân, có hành, có duyên.
‘uppannaṁ kho me idaṁ somanassindriyaṁ, tañca kho sanimittaṁ sanidānaṁ sasaṅkhāraṁ sappaccayaṁ.

Và hỷ căn ấy không tướng, không nhân, không hành, không duyên có thể khởi lên’; sự kiện như vậy không xảy ra.
tañca animittaṁ anidānaṁ asaṅkhāraṁ appaccayaṁ somanassindriyaṁ uppajjissatī’ti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.

Vị ấy rõ biết hỷ căn, rõ biết hỷ căn tập khởi, rõ biết hỷ căn đoạn diệt. Từ chỗ nào khởi lên, hỷ căn được đoạn diệt không có dư tàn, vị ấy rõ biết hỷ căn ấy.
So somanassindriyañca pajānāti, somanassindriyasamudayañca pajānāti, somanassindriyanirodhañca pajānāti, yattha cuppannaṁ somanassindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati tañca pajānāti.

Và tại chỗ nào hỷ căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn?
Kattha cuppannaṁ somanassindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Idha, bhikkhave, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṁ atthaṅgamā adukkhamasukhaṁ upekkhāsatipārisuddhiṁ catutthaṁ jhānaṁ upasampajja viharati,

Ở đây, hỷ căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn.
ettha cuppannaṁ somanassindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati.

Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là ‘Tỷ-kheo biết rõ sự đoạn diệt của hỷ căn, tập trung tâm để đạt tới điều kiện ấy’.
Ayaṁ vuccati, bhikkhave, ‘bhikkhu aññāsi somanassindriyassa nirodhaṁ, tadatthāya cittaṁ upasaṁharati’.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên xả căn,
Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato uppajjati upekkhindriyaṁ.

vị ấy rõ biết như sau:
So evaṁ pajānāti:

‘Xả căn này khởi lên nơi ta. Và xả căn ấy có tướng, có nhân, có hành, có duyên.
‘uppannaṁ kho me idaṁ upekkhindriyaṁ, tañca kho sanimittaṁ sanidānaṁ sasaṅkhāraṁ sappaccayaṁ.

Và xả căn ấy không tướng, không nhân, không hành, không duyên có thể khởi lên’; sự kiện như vậy không xảy ra.
tañca animittaṁ anidānaṁ asaṅkhāraṁ appaccayaṁ upekkhindriyaṁ uppajjissatī’ti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.

Vị ấy rõ biết xả căn, rõ biết xả căn tập khởi, rõ biết xả căn đoạn diệt. Từ chỗ nào khởi lên, xả căn được đoạn diệt không có dư tàn, vị ấy rõ biết xả căn ấy.
So upekkhindriyañca pajānāti, upekkhindriyasamudayañca pajānāti, upekkhindriyanirodhañca pajānāti, yattha cuppannaṁ upekkhindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati tañca pajānāti.

Và tại chỗ nào xả căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn?
Kattha cuppannaṁ upekkhindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt qua một cách hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định.
Idha, bhikkhave, bhikkhu sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṁ samatikkamma saññāvedayitanirodhaṁ upasampajja viharati,

Ở đây, xả căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn.
ettha cuppannaṁ upekkhindriyaṁ aparisesaṁ nirujjhati.

Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là ‘Tỷ-kheo biết rõ sự đoạn diệt của xả căn, tập trung tâm để đạt tới điều kiện ấy’.”
Ayaṁ vuccati, bhikkhave, ‘bhikkhu aññāsi upekkhindriyassa nirodhaṁ, tadatthāya cittaṁ upasaṁharatī’”ti.

Dasamaṁ.

Sukhindriyavaggo catuttho.

Tassuddānaṁ

Suddhikañca soto arahā,
duve samaṇabrāhmaṇā;
Vibhaṅgena tayo vuttā,
kaṭṭho uppaṭipāṭikanti.