WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 51.11 Trước

Kinh Tương Ưng 51.11
Saṁyutta Nikāya 51.11

2. Phẩm Lầu Rung Chuyển
2. Pāsādakampanavagga

Trước
Pubbasutta

Tại Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṁ.

“Trước khi Ta giác ngộ, này các Tỷ-kheo, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: “
“Pubbeva me, bhikkhave, sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi:

‘Do nhân gì, do duyên gì, tu tập như ý túc?’
‘ko nu kho hetu, ko paccayo iddhipādabhāvanāyā’ti?

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, bhikkhave, etadahosi:

‘Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tu tập như ý túc câu hữu với dục định tinh cần hành, với ý nghĩ:
‘idha bhikkhu chandasamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṁ iddhipādaṁ bhāveti—

Như vậy, ý muốn (dục) của ta sẽ không quá thụ động và không quá hăng say, sẽ không co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài, an trú với tưởng trước sau đồng đẳng.
iti me chando na ca atilīno bhavissati, na ca atippaggahito bhavissati, na ca ajjhattaṁ saṅkhitto bhavissati, na ca bahiddhā vikkhitto bhavissati.

Vị ấy tu thiền biết trước và sau:(*)
Pacchāpuresaññī ca viharati—

Trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như vậy.
yathā pure tathā pacchā, yathā pacchā tathā pure;

Dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy.
yathā adho tathā uddhaṁ, yathā uddhaṁ tathā adho;

Ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy.
yathā divā tathā rattiṁ, yathā rattiṁ tathā divā.

Như vậy, với tâm rộng mở, với tâm không gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm.
Iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṁ cittaṁ bhāveti’.

Có người tu tập như ý túc câu hữu với tinh tấn định tinh cần hành, với ý nghĩ:
Vīriyasamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṁ iddhipādaṁ bhāveti—

Như vậy, tinh tấn của ta sẽ không quá thụ động và cũng không quá hăng say, sẽ không co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài, an trú với tưởng trước sau đồng đẳng.
iti me vīriyaṁ na ca atilīnaṁ bhavissati, na ca atippaggahitaṁ bhavissati, na ca ajjhattaṁ saṅkhittaṁ bhavissati, na ca bahiddhā vikkhittaṁ bhavissati.

Vị ấy tu thiền biết trước và sau:(*)
Pacchāpuresaññī ca viharati—

Trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như như vậy.
yathā pure tathā pacchā, yathā pacchā tathā pure;

Dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy.
yathā adho tathā uddhaṁ, yathā uddhaṁ tathā adho;

Ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy.
yathā divā tathā rattiṁ, yathā rattiṁ tathā divā.

Có người tu tập tập như ý túc câu hữu với tâm định tinh cần hành, với ý nghĩ:
Iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṁ cittaṁ bhāveti.

Như vậy, tâm của ta sẽ không quá thụ động và cũng không quá hăng say, sẽ không co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài, an trú với tưởng trước sau đồng đẳng.
Cittasamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṁ iddhipādaṁ bhāveti—
iti me cittaṁ na ca atilīnaṁ bhavissati, na ca atippaggahitaṁ bhavissati, na ca ajjhattaṁ saṅkhittaṁ bhavissati, na ca bahiddhā vikkhittaṁ bhavissati.

Vị ấy tu thiền biết trước và sau:(*)
Pacchāpuresaññī ca viharati—

Trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như vậy.
yathā pure tathā pacchā, yathā pacchā tathā pure;

Dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy.
yathā adho tathā uddhaṁ, yathā uddhaṁ tathā adho;

Ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy.
yathā divā tathā rattiṁ, yathā rattiṁ tathā divā.

Như vậy, với tâm rộng mở, không với tâm gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm.
Iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṁ cittaṁ bhāveti.

Có người tu tập như ý túc, câu hữu với tư duy định tinh cần hành, với ý nghĩ:
Vīmaṁsāsamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṁ iddhipādaṁ bhāveti—

Như vậy, tâm của ta sẽ không quá thụ động và cũng không quá hăng say, sẽ không co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài, an trú với tưởng trước sau đồng đẳng.
iti me vīmaṁsā na ca atilīnā bhavissati, na ca atippaggahitā bhavissati, na ca ajjhattaṁ saṅkhittā bhavissati, na ca bahiddhā vikkhittā bhavissati.

Vị ấy tu thiền biết trước và sau:(*)
Pacchāpuresaññī ca viharati—

Trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như vậy.
yathā pure tathā pacchā, yathā pacchā tathā pure;

Dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy.
yathā adho tathā uddhaṁ, yathā uddhaṁ tathā adho;

Ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy”.
yathā divā tathā rattiṁ, yathā rattiṁ tathā divā.

Như vậy, với tâm rộng mở, không với tâm gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm.
Iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṁ cittaṁ bhāveti.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo chứng được nhiều loại thần thông: Một thân hiện ra nhiều thân; nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình, biến hình, đi ngang qua tường, qua thành lũy, qua núi, không dính như đi ngang qua hư không; trồi lên, độn thổ, ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không nứt ra như đi trên đất liền; ngồi kiết-già, đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại thần lực, đại uy thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.
Evaṁ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṁ bahulīkatesu, anekavihitaṁ iddhividhaṁ paccanubhoti—ekopi hutvā bahudhā hoti, bahudhāpi hutvā eko hoti; āvibhāvaṁ, tirobhāvaṁ; tirokuṭṭaṁ tiropākāraṁ tiropabbataṁ asajjamāno gacchati, seyyathāpi ākāse; pathaviyāpi ummujjanimujjaṁ karoti, seyyathāpi udake; udakepi abhijjamāne gacchati, seyyathāpi pathaviyaṁ; ākāsepi pallaṅkena kamati, seyyathāpi pakkhī sakuṇo; imepi candimasūriye evaṁmahiddhike evaṁmahānubhāve pāṇinā parimasati parimajjati; yāva brahmalokāpi kāyena vasaṁ vatteti.

Tu tập như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo chứng được thiên nhĩ thông thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, hoặc xa hoặc gần.
Evaṁ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṁ bahulīkatesu dibbāya sotadhātuyā visuddhāya atikkantamānusikāya ubho sadde suṇāti—dibbe ca mānuse ca, dūre santike cāti.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo với tâm của mình rõ biết tâm của các chúng sanh, của những người khác.
Evaṁ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṁ bahulīkatesu, parasattānaṁ parapuggalānaṁ cetasā ceto paricca pajānāti.

Với tâm có tham, vị ấy rõ biết là ‘tâm có tham’;
Sarāgaṁ vā cittaṁ ‘sarāgaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm không có tham, rõ biết là ‘tâm không có tham’;
vītarāgaṁ vā cittaṁ ‘vītarāgaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm có sân, rõ biết là ‘tâm có sân’;
sadosaṁ vā cittaṁ ‘sadosaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm không có sân, rõ biết là ‘tâm không có sân’;
vītadosaṁ vā cittaṁ ‘vītadosaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm có si rõ biết là ‘tâm có si’;
samohaṁ vā cittaṁ ‘samohaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm không có si, rõ biết là ‘tâm không có si’;
vītamohaṁ vā cittaṁ ‘vītamohaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm co rút, rõ biết là ‘tâm co rút’;
saṅkhittaṁ vā cittaṁ ‘saṅkhittaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm tán loạn, rõ biết là ‘tâm tán loạn’;
vikkhittaṁ vā cittaṁ ‘vikkhittaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm đại hành, rõ biết là ‘tâm đại hành’;
mahaggataṁ vā cittaṁ ‘mahaggataṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm không đại hành, rõ biết là ‘tâm không đại hành’;
amahaggataṁ vā cittaṁ ‘amahaggataṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm hữu hạn, rõ biết là ‘tâm hữu hạn’;
sauttaraṁ vā cittaṁ ‘sauttaraṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm vô thượng, rõ biết là ‘tâm vô thượng’;
anuttaraṁ vā cittaṁ ‘anuttaraṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm Thiền định, rõ biết là ‘tâm Thiền định’;
samāhitaṁ vā cittaṁ ‘samāhitaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm không Thiền định, rõ biết là ‘tâm không Thiền định’;
asamāhitaṁ vā cittaṁ ‘asamāhitaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm không giải thoát, rõ biết là ‘tâm không giải thoát’;
vimuttaṁ vā cittaṁ ‘vimuttaṁ cittan’ti pajānāti;

với tâm giải thoát, rõ biết là ‘tâm giải thoát’.
avimuttaṁ vā cittaṁ ‘avimuttaṁ cittan’ti pajānāti.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ: Như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: ‘Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây”. Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ với các nét đại cương và các chi tiết.
Evaṁ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṁ bahulīkatesu, anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati, seyyathidaṁ—ekampi jātiṁ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṁsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi jātisahassampi jātisatasahassampi anekepi saṁvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṁvaṭṭavivaṭṭakappe: ‘amutrāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto amutra udapādiṁ; tatrāpāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto idhūpapanno’ti. Iti sākāraṁ sauddesaṁ anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh: Vị ấy rõ biết chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang ; người đẹp đẽ, kẻ thô xấu; người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Các vị này làm những ác hạnh về thân, ngữ hay ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những vị làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng: “Chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ”.
Evaṁ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṁ bahulīkatesu, dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe, sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti: ‘ime vata, bhonto, sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṁ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapannā. Ime vā pana, bhonto, sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṁ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapannā’ti. Iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte, suvaṇṇe dubbaṇṇe, sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ và chứng đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.”
Evaṁ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṁ bahulīkatesu, āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī”ti.

Paṭhamaṁ.