WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 55.7 Dân Chúng Ở Veḷudvāra

Tương Ưng Bộ 55.7
Saṁyutta Nikāya 55.7

1. Phẩm Veḷudvāra
1. Veḷudvāravagga

Dân Chúng Ở Veḷudvāra
Veḷudvāreyyasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Veḷudvāra.
ekaṁ samayaṁ bhagavā kosalesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ yena veḷudvāraṁ nāma kosalānaṁ brāhmaṇagāmo tadavasari.

Các Bà-la-môn gia chủ ở Veḷudvāra được nghe:
Assosuṁ kho te veḷudvāreyyakā brāhmaṇagahapatikā:

“Sa-môn Gotama là Thích tử, đã xuất gia từ gia tộc họ Thích, đang đi du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đã đến Veḷudvāra”.
“samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito kosalesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ veḷudvāraṁ anuppatto.

Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn Gotama:
Taṁ kho pana bhavantaṁ gotamaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

“Ðây là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
‘itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṁ buddho bhagavā’.

Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
So imaṁ lokaṁ sadevakaṁ samārakaṁ sabrahmakaṁ sassamaṇabrāhmaṇiṁ pajaṁ sadevamanussaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedeti.

Sau khi chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghĩa, có văn. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn, đầy đủ, trong sạch.
So dhammaṁ deseti ādikalyāṇaṁ majjhekalyāṇaṁ pariyosānakalyāṇaṁ sātthaṁ sabyañjanaṁ, kevalaparipuṇṇaṁ parisuddhaṁ brahmacariyaṁ pakāseti.

Tốt lành thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!”
Sādhu kho pana tathārūpānaṁ arahataṁ dassanaṁ hotī”ti.

Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Veḷudvāra đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên; một số chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên với Thế Tôn tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; một số im lặng ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, các Bà-la-môn gia chủ ở Veḷudvāra bạch Thế Tôn:
Atha kho te veḷudvāreyyakā brāhmaṇagahapatikā yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā appekacce bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Appekacce bhagavatā saddhiṁ sammodiṁsu; sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Appekacce yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Appekacce bhagavato santike nāmagottaṁ sāvetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho te veḷudvāreyyakā brāhmaṇagahapatikā bhagavantaṁ etadavocuṁ:

“Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi có ước vọng như thế này, có ước muốn như thế này, có ý định như thế này:
“mayaṁ, bho gotama, evaṅkāmā evaṁchandā evaṁadhippāyā—

“Mong rằng chúng tôi được sống trong một nhà chật đầy trẻ con! Mong chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn từ Kāsi! Mong rằng chúng tôi được trang sức bằng vòng hoa và phấn sáp! Mong rằng chúng tôi được sử dụng vàng và bạc! Sau khi thân hoại mạng chung, mong rằng chúng tôi được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này!”
puttasambādhasayanaṁ ajjhāvaseyyāma, kāsikacandanaṁ paccanubhaveyyāma, mālāgandhavilepanaṁ dhāreyyāma, jātarūparajataṁ sādiyeyyāma, kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjeyyāma.

Mong rằng Tôn giả Gotama hãy thuyết pháp cho chúng tôi, những người có ước vọng như vậy, có ước muốn như vậy, có chú tâm như vậy. Hãy thuyết pháp như thế nào để chúng tôi được sống trong một nhà chật đầy trẻ con, để chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn từ Kāsi … để chúng tôi, khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này”.
Tesaṁ no bhavaṁ gotamo amhākaṁ evaṅkāmānaṁ evaṁchandānaṁ evaṁadhippāyānaṁ tathā dhammaṁ desetu yathā mayaṁ puttasambādhasayanaṁ ajjhāvaseyyāma …pe… sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjeyyāmā”ti.

“Vậy này các Gia chủ, Ta sẽ thuyết cho các Ông một pháp môn đưa đến lợi ích cho bản thân.
“Attupanāyikaṁ vo, gahapatayo, dhammapariyāyaṁ desessāmi.

Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.”
Taṁ suṇātha, sādhukaṁ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.

“Thưa vâng, Tôn giả,” các Bà-la-môn ở Veḷudvāra vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Evaṁ, bho”ti kho te veḷudvāreyyakā brāhmaṇagahapatikā bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca:

“Này các Gia chủ, thế nào là pháp môn đưa đến lợi ích cho bản thân?
“Katamo ca, gahapatayo, attupanāyiko dhammapariyāyo?

Ở đây, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
Idha, gahapatayo, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:

‘Ta muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ.
‘ahaṁ khosmi jīvitukāmo amaritukāmo sukhakāmo dukkhappaṭikūlo.

Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta, một người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với ta.
Yo kho maṁ jīvitukāmaṁ amaritukāmaṁ sukhakāmaṁ dukkhappaṭikūlaṁ jīvitā voropeyya, na metaṁ assa piyaṁ manāpaṁ.

Nhưng nếu ta đoạt mạng sống một người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với người ấy.
Ahañceva kho pana paraṁ jīvitukāmaṁ amaritukāmaṁ sukhakāmaṁ dukkhappaṭikūlaṁ jīvitā voropeyyaṁ, parassapi taṁ assa appiyaṁ amanāpaṁ.

Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác.
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, parassa peso dhammo appiyo amanāpo.

Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?’
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, kathāhaṁ paraṁ tena saṁyojeyyan’ti.

Do suy tư như vậy, vị ấy từ bỏ sát sanh, khuyến khích người khác từ bỏ sát sanh, nói lời tán thán từ bỏ sát sanh.
So iti paṭisaṅkhāya attanā ca pāṇātipātā paṭivirato hoti, parañca pāṇātipātā veramaṇiyā samādapeti, pāṇātipātā veramaṇiyā ca vaṇṇaṁ bhāsati.

Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
Evamassāyaṁ kāyasamācāro tikoṭiparisuddho hoti.

Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau:
Puna caparaṁ, gahapatayo, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:

‘Nếu có ai lấy của không cho của ta, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
‘yo kho me adinnaṁ theyyasaṅkhātaṁ ādiyeyya, na metaṁ assa piyaṁ manāpaṁ.

Nhưng nếu ta lấy của không cho của người khác, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Ahañceva kho pana parassa adinnaṁ theyyasaṅkhātaṁ ādiyeyyaṁ, parassapi taṁ assa appiyaṁ amanāpaṁ.

Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác.
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, parassa peso dhammo appiyo amanāpo.

Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao lại đem cột pháp ấy cho người khác?’
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, kathāhaṁ paraṁ tena saṁyojeyyan’ti.

Do suy tư như vậy, vị ấy từ bỏ lấy của không cho, khuyến khích người khác từ bỏ lấy của không cho, nói lời tán thán từ bỏ lấy của không cho.
So iti paṭisaṅkhāya attanā ca adinnādānā paṭivirato hoti, parañca adinnādānā veramaṇiyā samādapeti, adinnādānā veramaṇiyā ca vaṇṇaṁ bhāsati.

Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
Evamassāyaṁ kāyasamācāro tikoṭiparisuddho hoti.

Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
Puna caparaṁ, gahapatayo, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:

‘Nếu ai có tà hạnh với vợ của ta, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
‘yo kho me dāresu cārittaṁ āpajjeyya, na metaṁ assa piyaṁ manāpaṁ.

Nhưng nếu ta có tà hạnh với vợ của người khác, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Ahañceva kho pana parassa dāresu cārittaṁ āpajjeyyaṁ, parassapi taṁ assa appiyaṁ amanāpaṁ.

Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác.
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, parassa peso dhammo appiyo amanāpo.

Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?’
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, kathāhaṁ paraṁ tena saṁyojeyyan’ti.

Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ tà hạnh trong các dục, khuyến khích người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục, nói lời tán thán từ bỏ tà hạnh trong các dục.
So iti paṭisaṅkhāya attanā ca kāmesumicchācārā paṭivirato hoti, parañca kāmesumicchācārā veramaṇiyā samādapeti, kāmesumicchācārā veramaṇiyā ca vaṇṇaṁ bhāsati.

Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
Evamassāyaṁ kāyasamācāro tikoṭiparisuddho hoti.

Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
Puna caparaṁ, gahapatayo, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:

‘Nếu có ai làm tổn hại lợi ích ta với lời nói láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
‘yo kho me musāvādena atthaṁ bhañjeyya, na metaṁ assa piyaṁ manāpaṁ.

Nhưng nếu ta cũng làm tổn hại lợi ích người khác với lời nói láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Ahañceva kho pana parassa musāvādena atthaṁ bhañjeyyaṁ, parassapi taṁ assa appiyaṁ amanāpaṁ.

Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác.
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, parassa peso dhammo appiyo amanāpo.

Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?’
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, kathāhaṁ paraṁ tena saṁyojeyyan’ti.

Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói láo, khuyến khích người khác từ bỏ nói láo, nói lời tán thán từ bỏ nói láo.
So iti paṭisaṅkhāya attanā ca musāvādā paṭivirato hoti, parañca musāvādā veramaṇiyā samādapeti, musāvādā veramaṇiyā ca vaṇṇaṁ bhāsati.

Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
Evamassāyaṁ vacīsamācāro tikoṭiparisuddho hoti.

Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau:
Puna caparaṁ, gahapatayo, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:

“Nếu có ai chia rẽ bạn bè ta bằng lời nói hai lưỡi,như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
“yo kho maṁ pisuṇāya vācāya mitte bhindeyya, na metaṁ assa piyaṁ manāpaṁ.

Nhưng nếu ta chia rẽ bạn bè người khác bằng lời nói hai lưỡi, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói hai lưỡi, khuyến khích người khác từ bỏ nói lời hai lưỡi, nói lời tán thán từ bỏ nói lời hai lưỡi.
Ahañceva kho pana paraṁ pisuṇāya vācāya mitte bhindeyyaṁ, parassapi taṁ assa appiyaṁ amanāpaṁ …pe…

Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
evamassāyaṁ vacīsamācāro tikoṭiparisuddho hoti.

Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau:
Puna caparaṁ, gahapatayo, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:

“Nếu có ai đối xử với ta bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
“yo kho maṁ pharusāya vācāya samudācareyya, na metaṁ assa piyaṁ manāpaṁ.

Nhưng nếu ta cũng đối xử với người khác bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Ahañceva kho pana paraṁ pharusāya vācāya samudācareyyaṁ, parassapi taṁ assa appiyaṁ amanāpaṁ.

Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ thô ác ngữ, khuyến khích người khác từ bỏ thô ác ngữ, nói lời tán thán từ bỏ thô ác ngữ.
Yo kho myāyaṁ dhammo …pe…

Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
evamassāyaṁ vacīsamācāro tikoṭiparisuddho hoti.

Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau:
Puna caparaṁ, gahapatayo, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:

‘Nếu có ai đối xử với ta với lời tạp ngữ, với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
‘yo kho maṁ samphabhāsena samphappalāpabhāsena samudācareyya, na metaṁ assa piyaṁ manāpaṁ.

Nhưng nếu ta cũng đối xử với người khác với lời tạp ngữ, với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Ahañceva kho pana paraṁ samphabhāsena samphappalāpabhāsena samudācareyyaṁ, parassapi taṁ assa appiyaṁ amanāpaṁ.

Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác.
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, parassa peso dhammo appiyo amanāpo.

Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?’
Yo kho myāyaṁ dhammo appiyo amanāpo, kathāhaṁ paraṁ tena saṁyojeyyan’ti.

Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ lời nói phù phiếm, khuyến khích người khác từ bỏ nói lời phù phiếm, tán thán từ bỏ nói lời phù phiếm.
So iti paṭisaṅkhāya attanā ca samphappalāpā paṭivirato hoti, parañca samphappalāpā veramaṇiyā samādapeti, samphappalāpā veramaṇiyā ca vaṇṇaṁ bhāsati.

Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
Evamassāyaṁ vacīsamācāro tikoṭiparisuddho hoti.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: ‘Ðây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn’.
So buddhe aveccappasādena samannāgato hoti—itipi so bhagavā …pe… satthā devamanussānaṁ buddho bhagavāti;

đối với Pháp …
dhamme …pe…

Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với chúng Tăng: ‘Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời’.
saṅghe aveccappasādena samannāgato hoti suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho …pe… anuttaraṁ puññakkhettaṁ lokassāti.

Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị điểm ố, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định.
ariyakantehi sīlehi samannāgato hoti akhaṇḍehi …pe… samādhisaṁvattanikehi.

Này các Gia chủ, khi nào vị Thánh đệ tử thành tựu bảy pháp này và bốn lời nguyện xứ này, nếu vị ấy muốn, vị ấy có thể tuyên bố về mình:
Yato kho, gahapatayo, ariyasāvako imehi sattahi saddhammehi samannāgato hoti imehi catūhi ākaṅkhiyehi ṭhānehi, so ākaṅkhamāno attanāva attānaṁ byākareyya:

‘Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận khỏi sanh vào loại bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không có bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ’.”
‘khīṇanirayomhi khīṇatiracchānayoni khīṇapettivisayo khīṇāpāyaduggativinipāto, sotāpannohamasmi avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo’”ti.

Ðược nói vậy, các Bà-la-môn gia chủ ở Veḷudvāra bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, veḷudvāreyyakā brāhmaṇagahapatikā bhagavantaṁ etadavocuṁ:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! …
“abhikkantaṁ, bho gotama …pe…

Và nay chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng.
ete mayaṁ bhavantaṁ gotamaṁ saraṇaṁ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca.

mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng”.
Upāsake no bhavaṁ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupete saraṇaṁ gate”ti.

Sattamaṁ.