WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 55.54 Bị Bệnh

Tương Ưng Bộ 55.54
Saṁyutta Nikāya 55.54

6. Phẩm Với Trí Tuệ
6. Sappaññavagga

Bị Bệnh
Gilānasutta

Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng họ Thích, tại Kapilavatthu, Tu Viện Nigrodhā.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā sakkesu viharati kapilavatthusmiṁ nigrodhārāme.

Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng:
Tena kho pana samayena sambahulā bhikkhū bhagavato cīvarakammaṁ karonti:

“khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ đi du hành”.
“niṭṭhitacīvaro bhagavā temāsaccayena cārikaṁ pakkamissatī”ti.

Họ Thích Mahānāma được nghe:
Assosi kho mahānāmo sakko:

“Nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn và họ nghĩ rằng:
“sambahulā kira bhikkhū bhagavato cīvarakammaṁ karonti:

‘Khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ đi du hành’.”
‘niṭṭhitacīvaro bhagavā temāsaccayena cārikaṁ pakkamissatī’”ti.

Rồi họ Thích Mahānāma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho mahānāmo sakko yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi một bên, họ Thích Mahānāma bạch Thế Tôn:
Ekamantaṁ nisinno kho mahānāmo sakko bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con được nghe:
“sutametaṁ, bhante:

‘nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn và họ nghĩ rằng:
‘sambahulā kira bhikkhū bhagavato cīvarakammaṁ karonti—

Sau khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi du hành’.
niṭṭhitacīvaro bhagavā temāsaccayena cārikaṁ pakkamissatī’ti.

Chúng con chưa được tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lãnh thọ từ Thế Tôn điều này. Bạch Thế Tôn, một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được một cư sĩ có trí giáo giới như thế nào”.
Na kho netaṁ, bhante, bhagavato sammukhā sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ sappaññena upāsakena sappañño upāsako ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno ovaditabbo”ti.

“Này Mahānāma, một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được an ủi với bốn pháp an ủi như sau:
“Sappaññena, mahānāma, upāsakena sappañño upāsako ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno catūhi assāsanīyehi dhammehi assāsetabbo:

‘Tôn giả hãy yên tâm,
‘assāsatāyasmā—

với lòng tịnh tín bất động của Tôn giả đối với đức Phật: Ðây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn’.
atthāyasmato buddhe aveccappasādo itipi so bhagavā …pe… satthā devamanussānaṁ buddho bhagavāti.

Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của Tôn giả đối với Pháp…
Assāsatāyasmā—atthāyasmato dhamme …pe…

Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của của Tôn giả đối với chúng Tăng …
saṅghe …pe…

Tôn giả hãy yên tâm, với các giới của Tôn giả được các bậc Thánh ái kính … đưa đến Thiền định.’
ariyakantāni sīlāni akhaṇḍāni …pe… samādhisaṁvattanikānī’ti.

Một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, này Mahānāma, phải được một cư sĩ có trí giáo giới với bốn pháp an ủi này. Cần phải nói như vậy.
Sappaññena, mahānāma, upāsakena sappañño upāsako ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno imehi catūhi assāsanīyehi dhammehi assāsetvā evamassa vacanīyo:

‘Tôn giả ấy có lòng thương nhớ cha mẹ.’
‘atthāyasmato mātāpitūsu apekkhā’ti?

Nếu vị ấy nói:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Tôi còn có lòng thương nhớ cha mẹ’, thời nên nói với vị ấy như sau:
‘atthi me mātāpitūsu apekkhā’ti, so evamassa vacanīyo:

‘Thưa Tôn giả, Tôn giả thế nào cũng phải chết.
‘āyasmā kho māriso maraṇadhammo.

Dầu Tôn giả có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ chết.
Sacepāyasmā mātāpitūsu apekkhaṁ karissati, marissateva;

Dầu Tôn giả không có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ chết.
no cepāyasmā mātāpitūsu apekkhaṁ karissati, marissateva.

Vậy tốt hơn là Tôn giả hãy từ bỏ lòng thương nhớ đối với cha mẹ của Tôn giả’
Sādhāyasmā, yā te mātāpitūsu apekkhā taṁ pajahā’ti.

Nếu vị ấy nói như sau:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Lòng thương nhớ của tôi đối với cha mẹ, lòng thương nhớ ấy đã được đoạn tận’, vị ấy cần phải được nói như sau:
‘yā me mātāpitūsu apekkhā sā pahīnā’ti, so evamassa vacanīyo:

‘Tôn giả có lòng thương nhớ vợ con hay không?’
‘atthi panāyasmato puttadāresu apekkhā’ti?

Nếu vị ấy nói:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Tôi có lòng thương nhớ vợ con’, thời vị ấy cần phải được nói như sau:
‘atthi me puttadāresu apekkhā’ti, so evamassa vacanīyo:

‘Tôn giả thế nào cũng chết.
‘āyasmā kho māriso maraṇadhammo.

Dầu Tôn giả có lòng thương nhớ vợ con, Tôn giả cũng sẽ chết.
Sacepāyasmā puttadāresu apekkhaṁ karissati, marissateva;

Dầu Tôn giả không có lòng thương nhớ vợ con, Tôn giả cũng sẽ chết.
no cepāyasmā puttadāresu apekkhaṁ karissati, marissateva.

Vậy tốt hơn là Tôn giả hãy từ bỏ lòng thương nhớ đối với vợ con của Tôn giả’.
Sādhāyasmā, yā te puttadāresu apekkhā taṁ pajahā’ti.

Nếu vị ấy nói như sau:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Lòng thương nhớ của tôi đối với vợ con, lòng thương nhớ ấy đã được đoạn tận’, vị ấy cần phải được nói như sau:
‘yā me puttadāresu apekkhā sā pahīnā’ti, so evamassa vacanīyo:

‘Tôn giả có lòng thương tiếc năm dục công đức của loài Người không?’
‘atthi panāyasmato mānusakesu pañcasu kāmaguṇesu apekkhā’ti?

Nếu vị ấy nói như sau:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Tôi có lòng thương nhớ năm dục công đức của loài Người’, vị ấy cần phải được nói như sau:
‘atthi me mānusakesu pañcasu kāmaguṇesu apekkhā’ti, so evamassa vacanīyo:

‘Các Thiên dục đối với nhân dục, còn hấp dẫn hơn, còn thù diệu hơn.
‘mānusakehi kho, āvuso, kāmehi dibbā kāmā abhikkantatarā ca paṇītatarā ca.

Vậy tốt hơn Tôn giả hãy từ bỏ tâm khỏi các nhân dục, và hướng tâm đến Tứ đại thiên vương thiên’.
Sādhāyasmā, mānusakehi kāmehi cittaṁ vuṭṭhāpetvā cātumahārājikesu devesu cittaṁ adhimocehī’ti.

Nếu vị ấy nói như sau:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Tâm tôi đã từ bỏ nhân dục và hướng đến Tứ đại thiên vương thiên’, vị ấy cần được nói như sau:
‘mānusakehi me kāmehi cittaṁ vuṭṭhitaṁ, cātumahārājikesu devesu cittaṁ adhimocitan’ti, so evamassa vacanīyo:

‘Chư Thiên ở cõi Ba mươi ba còn hấp dẫn hơn, còn thù diệu hơn Tứ đại thiên vương thiên.
‘cātumahārājikehi kho, āvuso, devehi tāvatiṁsā devā abhikkantatarā ca paṇītatarā ca.

Tốt hơn Tôn giả hãy từ bỏ tâm khỏi Tứ đại thiên vương thiên và hướng tâm đến chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba’.
Sādhāyasmā, cātumahārājikehi devehi cittaṁ vuṭṭhāpetvā tāvatiṁsesu devesu cittaṁ adhimocehī’ti.

Nếu vị ấy nói như sau:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Tâm tôi đã từ bỏ Tứ đại thiên vương thiên và hướng đến chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba’, vị ấy cần được nói như sau:
‘cātumahārājikehi me devehi cittaṁ vuṭṭhitaṁ, tāvatiṁsesu devesu cittaṁ adhimocitan’ti, so evamassa vacanīyo:

‘Tốt hơn Tôn giả hãy từ bỏ tâm khỏi Chư Thiên Yama …
‘tāvatiṁsehi kho, āvuso, devehi yāmā devā …pe…

chư Thiên Tusitā …
tusitā devā …pe…

chư Thiên Hóa lạc thiên …
nimmānaratī devā …pe…

chư Thiên Tha hóa tự tại thiên …
paranimmitavasavattī devā …pe…

Chư Thiên ở Phạm thế còn hấp dẫn hơn, còn thù diệu hơn chư Thiên ở Tha hóa tự tại thiên. Tốt hơn Tôn giả từ bỏ tâm khỏi chư Thiên Tha hóa tự tại thiên và hướng tâm đến Phạm thế, Phạm thiên giới’
paranimmitavasavattīhi kho, āvuso, devehi brahmaloko abhikkantataro ca paṇītataro ca. Sādhāyasmā, paranimmitavasavattīhi devehi cittaṁ vuṭṭhāpetvā brahmaloke cittaṁ adhimocehī’ti.

Nếu vị ấy nói như sau:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Tâm tôi đã từ bỏ chư Thiên Tha hóa tự tại thiên và hướng tâm về chư Thiên ở Phạm thế’, thời vị ấy cần phải được nói như sau:
‘paranimmitavasavattīhi me devehi cittaṁ vuṭṭhitaṁ, brahmaloke cittaṁ adhimocitan’ti, so evamassa vacanīyo:

‘Này Tôn giả, Phạm thiên giới là vô thường, không thường hằng, bị thân kiến giới hạn.
‘brahmalokopi kho, āvuso, anicco addhuvo sakkāyapariyāpanno.

Tốt hơn là Tôn giả hãy từ bỏ tâm khỏi Phạm thiên giới và hướng tâm đến đoạn diệt thân kiến.’
Sādhāyasmā, brahmalokā cittaṁ vuṭṭhāpetvā sakkāyanirodhe cittaṁ upasaṁharāhī’ti.

Nếu vị ấy nói như sau:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Tâm tôi đã từ bỏ Phạm thiên giới và hướng đến đoạn diệt thân kiến’;
‘brahmalokā me cittaṁ vuṭṭhitaṁ, sakkāyanirodhe cittaṁ upasaṁharāmī’ti;

vị cư sĩ nói như vậy, này Mahānāma, và với Tỷ-kheo có tâm giải thoát khỏi các lậu hoặc, Ta nói rằng không có gì sai biệt, tức là:
evaṁ vimuttacittassa kho, mahānāma, upāsakassa āsavā vimuttacittena bhikkhunā na kiñci nānākaraṇaṁ vadāmi, yadidaṁ—

về phương diện giải thoát.”
vimuttiyā vimuttan”ti.

Catutthaṁ.