WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 1.35 Hiềm Trách Thiên

Tương Ưng Bộ 1.35
Saṁyutta Nikāya 1.35

4. Phẩm Quần Tiên
4. Satullapakāyikavagga

Hiềm Trách Thiên
Ujjhānasaññisutta

Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
Ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Monastery.

Rồi rất nhiều quần tiên Ujjhānasannā (Hiềm trách thiên), sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, các vị ấy đứng giữa hư không. Rồi một vị Thiên đứng giữa hư không, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Atha kho sambahulā ujjhānasaññikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṁ jetavanaṁ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā vehāsaṁ aṭṭhaṁsu. Vehāsaṁ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṁ gāthaṁ abhāsi:
Then, late at night, several glorious deities of the Disdainful Group, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, and stood in the air. Standing in the air, one deity recited this verse in the Buddha’s presence:

“Những ai nói mình khác
Với điều họ thực có,
Thời mọi vật thọ dụng,
Xem như do trộm cắp,
Chẳng khác kẻ gian manh,
Dùng lừa đảo trộm cắp.
“Aññathā santamattānaṁ,
aññathā yo pavedaye;
Nikacca kitavasseva,
bhuttaṁ theyyena tassa taṁ.
“Someone who pretends
to be other than they really are,
is like a cheating gambler
who enjoys what was gained by theft.

Hãy nói điều có làm,
Không nói điều không làm,
Không làm nói có làm,
Kẻ trí biết rõ họ.”
Yañhi kayirā tañhi vade,
yaṁ na kayirā na taṁ vade;
Akarontaṁ bhāsamānaṁ,
parijānanti paṇḍitā”ti.
You should only say what you would do;
you shouldn’t say what you wouldn’t do.
The wise will recognize
one who talks without doing.”

(Thế Tôn):
“Những ai chỉ biết nói,
Hay chỉ biết nghe thôi,
Những hạng người như vậy,
Không thể nào tiến bộ.
Khó nhọc thay con đường,
Giúp kẻ trí giải thoát.
“Na yidaṁ bhāsitamattena,
ekantasavanena vā;
Anukkamitave sakkā,
yāyaṁ paṭipadā daḷhā;
Yāya dhīrā pamuccanti,
jhāyino mārabandhanā.
“Not just by speaking,
nor solely by listening,
are you able to progress
on this hard path,
by which wise ones practicing absorption
are released from Māra’s bonds.

Nhờ Thiền định thiêu cháy,
Mọi trói buộc quần ma,
Kẻ trí không làm vậy,
Sau khi biết thế tình,
Với trí, chứng Niết-bàn,
Vượt chấp trước ở đời.”
Na ve dhīrā pakubbanti,
viditvā lokapariyāyaṁ;
Aññāya nibbutā dhīrā,
tiṇṇā loke visattikan”ti.
The wise certainly don’t act like that,
for they understand the way of the world.
The wise are extinguished by understanding,
they’ve crossed over clinging to the world.”

Rồi các quần tiên ấy đứng xuống đất, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn: “Ðây là tội lỗi của chúng con, Bạch Thế Tôn. Chúng con đi đến tội lỗi, vì ngu xuẩn, vì mê mờ, vì bất thiện. Chúng con nghĩ chúng con có thể công kích Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận cho chúng con, lỗi lầm là lỗi lầm để gìn giữ trong tương lai.”
Atha kho tā devatāyo pathaviyaṁ patiṭṭhahitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṁ etadavocuṁ: “accayo no, bhante, accagamā yathābālaṁ yathāmūḷhaṁ yathāakusalaṁ, yā mayaṁ bhagavantaṁ āsādetabbaṁ amaññimhā. Tāsaṁ no, bhante, bhagavā accayaṁ accayato paṭiggaṇhātu āyatiṁ saṁvarāyā”ti.
Then those deities landed on the ground, bowed with their heads at the Buddha’s feet and said, “We have made a mistake, sir. It was foolish, stupid, and unskillful of us to imagine we could attack the Buddha! Please, sir, accept our mistake for what it is, so we will restrain ourselves in future.”

Rồi Thế Tôn mỉm cười.
Atha kho bhagavā sitaṁ pātvākāsi.
At that, the Buddha smiled.

Các quần tiên ấy càng tức tối thêm và bay lên hư không. Một vị Thiên nói bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Atha kho tā devatāyo bhiyyoso mattāya ujjhāyantiyo vehāsaṁ abbhuggañchuṁ. Ekā devatā bhagavato santike imaṁ gāthaṁ abhāsi:
Then those deities, becoming even more disdainful, flew up in the air. One deity recited this verse in the Buddha’s presence:

“Ai không chịu chấp nhận,
Tội lỗi được phát lộ,
Nội phẫn, ưa sân hận,
Hận thù càng kiên chặt.”
“Accayaṁ desayantīnaṁ,
yo ce na paṭigaṇhati;
Kopantaro dosagaru,
sa veraṁ paṭimuñcatī”ti.
“If you don’t give your pardon
when a mistake is confessed,
with hidden anger and heavy hate,
you’re stuck in your enmity.”

“Nếu không có tội lỗi,
Ở đây không lầm lạc,
Hận thù không thể tiêu.
Do gì xem là thiện?”
“Accayo ce na vijjetha,
nocidhāpagataṁ siyā; 
Verāni na ca sammeyyuṁ,
kenīdha kusalo siyā”ti.
“If no mistake is found,
if no-one’s gone astray,
and enmities are settled,
then who could have been unskillful?”

“Với ai không tội lỗi?
Với ai không lầm lạc?
Ai không bị si mê?
Ai kẻ trí thường niệm?”
“Kassaccayā na vijjanti,
kassa natthi apāgataṁ;
Ko na sammohamāpādi,
ko ca dhīro sadā sato”ti.
“Who makes no mistakes?
Who doesn’t go astray?
Who doesn’t fall into confusion?
Who is the wise one that’s ever mindful?”

(Thế Tôn):
“Như Lai, bậc Giác Ngộ,
Thương xót mọi hữu tình,
Nơi Ngài không tội lỗi,
Nơi Ngài không lầm lạc.
Ngài không bị si mê,
Ngài chánh trí thường niệm.
“Tathāgatassa buddhassa,
sabbabhūtānukampino;
Tassaccayā na vijjanti,
tassa natthi apāgataṁ;
So na sammohamāpādi,
sova dhīro sadā satoti.
“The Realized One, the Buddha,
compassionate for all beings:
that’s who makes no mistakes,
and that’s who doesn’t go astray.
He doesn’t fall into confusion,
for he’s the wise one, ever mindful.

Ai không chịu chấp nhận,
Tội lỗi được phát lộ,
Nội phẫn, ưa sân hận,
Hận thù càng kiên chặt.
Ta không thích hận thù,
Ta nhận tội các Ông.”
Accayaṁ desayantīnaṁ,
yo ce na paṭigaṇhati;
Kopantaro dosagaru,
sa veraṁ paṭimuñcati;
Taṁ veraṁ nābhinandāmi,
paṭiggaṇhāmi voccayan”ti.
If you don’t give your pardon
when a mistake is confessed,
with hidden anger and heavy hate,
you’re stuck in your enmity.
I don’t approve of such enmity,
and so I pardon your mistake.”