WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 1.37 Tụ Hội

Tương Ưng Bộ 1.37
Saṁyutta Nikāya 1.37

4. Phẩm Quần Tiên
4. Satullapakāyikavagga

Tụ Hội
Samayasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ-
So I have heard.

Một thời Thế Tôn ở giữa dòng họ Sakka (Thích-ca), tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở rừng Ðại Lâm, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng 500 vị, tất cả là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
ekaṁ samayaṁ bhagavā sakkesu viharati kapilavatthusmiṁ mahāvane mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehi; dasahi ca lokadhātūhi devatā yebhuyyena sannipatitā honti bhagavantaṁ dassanāya bhikkhusaṅghañca.
At one time the Buddha was staying in the land of the Sakyans, near Kapilavatthu in the Great Wood, together with a large Saṅgha of around five hundred mendicants, all of whom were perfected ones. And most of the deities from ten solar systems had gathered to see the Buddha and the Saṅgha of mendicants.

Rồi bốn vị Tịnh cư thiên (Suddāvāsa) suy nghĩ như sau: “Thế Tôn nay ở giữa dân chúng Sakka, thành Kapilavatthu, rừng Ðại Lâm, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng 500 vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới, phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Vậy chúng ta hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, mỗi chúng ta đọc một bài kệ dâng lên Thế Tôn.”
Atha kho catunnaṁ suddhāvāsakāyikānaṁ devatānaṁ etadahosi: “ayaṁ kho bhagavā sakkesu viharati kapilavatthusmiṁ mahāvane mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehi; dasahi ca lokadhātūhi devatā yebhuyyena sannipatitā honti bhagavantaṁ dassanāya bhikkhusaṅghañca. Yannūna mayampi yena bhagavā tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā bhagavato santike paccekaṁ gāthaṁ bhāseyyāmā”ti.
Then four deities of the Pure Abodes, aware of what was happening, thought: “Why don’t we go to the Buddha and each recite a verse in his presence?”

Rồi chư Thiên ấy nhanh như nhà lực sĩ duỗi cánh tay đã co lại, hay co cánh tay đã duỗi ra, biến mất từ Tịnh cư thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn. Chư Thiên ấy đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một vị Thiên đọc bài kệ trước Thế Tôn:
Atha kho tā devatā—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṁ vā bāhaṁ pasāreyya pasāritaṁ vā bāhaṁ samiñjeyya; evameva—suddhāvāsesu devesu antarahitā bhagavato purato pāturahesuṁ. Atha kho tā devatā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhaṁsu. Ekamantaṁ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṁ gāthaṁ abhāsi:
Then, as easily as a strong person would extend or contract their arm, they vanished from the Pure Abodes and reappeared in front of the Buddha. They bowed to the Buddha and stood to one side. Standing to one side, one deity recited this verse in the Buddha’s presence:

“Ðại hội tại Ðại Lâm,
Chư Thiên đồng tụ tập,
Chúng con đến Pháp hội,
Ðảnh lễ chúng Bất thắng.”
“Mahāsamayo pavanasmiṁ,
Devakāyā samāgatā;
Āgatamha imaṁ dhammasamayaṁ,
Dakkhitāye aparājitasaṅghan”ti.
“There’s a great congregation in the woods,
a host of gods have assembled.
We’ve come to this righteous congregation
to see the invincible Saṅgha!”

Rồi một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṁ gāthaṁ abhāsi:
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:

“Tại đây chúng Tỷ-kheo,
Thiền định, tâm chánh trực,
Như chủ xe nắm cương,
Bậc hiền hộ các căn.”
“Tatra bhikkhavo samādahaṁsu,
Cittamattano ujukaṁ akaṁsu; 
Sārathīva nettāni gahetvā,
Indriyāni rakkhanti paṇḍitā”ti.
“The mendicants there have immersion,
they’ve straightened out their own minds.
Like a charioteer who has taken the reins,
the astute ones protect their senses.”

Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṁ gāthaṁ abhāsi:
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:

“Như khóa gãy, chốt tháo,
Trụ bị đào, tham đoạn,
Sống thanh tịnh, vô cấu,
Có mắt, voi khéo điều.”
“Chetvā khīlaṁ chetvā palighaṁ,
Indakhīlaṁ ūhacca manejā;
Te caranti suddhā vimalā,
Cakkhumatā sudantā susunāgā”ti.
“Having cut the stake and cut the bar,
they’re unstirred, with boundary post uprooted.
They live pure and immaculate,
the young dragons tamed by the seer.”

Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước mặt Thế Tôn:
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṁ gāthaṁ abhāsi:
Then another deity recited this verse in the Buddha’s presence:

“Những ai quy y Phật,
Sẽ không đọa ác thú,
Sau khi bỏ thân Người,
Sẽ sanh làm chư Thiên.”
“Ye keci buddhaṁ saraṇaṁ gatāse,
Na te gamissanti apāyabhūmiṁ;
Pahāya mānusaṁ dehaṁ,
Devakāyaṁ paripūressantī”ti.
“Anyone who has gone to the Buddha for refuge
won’t go to a plane of loss.
After giving up this human body,
they swell the hosts of gods.”