WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 10.12 Dạ-xoa Āḷavaka

Tương Ưng Bộ 10.12
Saṁyutta Nikāya 10.12

1. Phẩm Indaka
1. Indakavagga

Dạ-xoa Āḷavaka
Āḷavakasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời, Thế Tôn trú ở Āḷavī, tại trú xứ của Dạ-xoa Āḷavaka.
ekaṁ samayaṁ bhagavā āḷaviyaṁ viharati āḷavakassa yakkhassa bhavane.

Rồi Dạ-xoa Āḷavaka nói với Thế Tôn:
Atha kho āḷavako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ etadavoca:

“Này Sa-môn, hãy đi ra!”
“nikkhama, samaṇā”ti.

“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi ra.
“Sādhāvuso”ti bhagavā nikkhami.

“Này Sa-môn, hãy đi vào!”
“Pavisa, samaṇā”ti.

“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi vào.
“Sādhāvuso”ti bhagavā pāvisi.

Lần thứ hai, Dạ-xoa Āḷavaka nói với Thế Tôn:
Dutiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṁ etadavoca:

“Này Sa-môn, hãy đi ra!”
“nikkhama, samaṇā”ti.

“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi ra.
“Sādhāvuso”ti bhagavā nikkhami.

“Này Sa-môn, hãy đi vào!”
“Pavisa, samaṇā”ti.

“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi vào.
“Sādhāvuso”ti bhagavā pāvisi.

Lần thứ ba, Dạ-xoa Āḷavīka nói với Thế Tôn:
Tatiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṁ etadavoca:

“Này Sa-môn, hãy đi ra!”
“nikkhama, samaṇā”ti.

“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi ra.
“Sādhāvuso”ti bhagavā nikkhami.

“Này Sa-môn, hãy đi vào!”
“Pavisa, samaṇā”ti.

“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi vào.
“Sādhāvuso”ti bhagavā pāvisi.

Lần thứ tư, Dạ-xoa Āḷavīka nói với Thế Tôn:
Catutthampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṁ etadavoca:

“Này Sa-môn, hãy đi ra!”
“nikkhama, samaṇā”ti.

“Này Hiền giả, Ta không đi ra. Hãy làm gì Ông nghĩ là phải làm”.
“Na khvāhaṁ taṁ, āvuso, nikkhamissāmi. Yaṁ te karaṇīyaṁ taṁ karohī”ti.

“Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu hỏi.
“Pañhaṁ taṁ, samaṇa, pucchissāmi.

Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng.”
Sace me na byākarissasi, cittaṁ vā te khipissāmi, hadayaṁ vā te phālessāmi, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmī”ti.

“Này Hiền giả, Ta không thấy một ai, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta hay nắm lấy chân, quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng.
“Na khvāhaṁ taṁ, āvuso, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya, yo me cittaṁ vā khipeyya hadayaṁ vā phāleyya, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya.

Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như Ông muốn.”
Api ca tvaṁ, āvuso, puccha yadā kaṅkhasī”ti (…).

(Dạ-xoa):

“Cái gì đối người đời,
Là tài sản tối thượng?
Cái gì khéo hành trì,
Ðem lại chân an lạc?
Cái gì giữa các vị,
Là vị ngọt tối thượng?
Phải sống như thế nào,
Ðược gọi sống tối thượng?”
“Kiṁsūdha vittaṁ purisassa seṭṭhaṁ,
Kiṁsu suciṇṇaṁ sukhamāvahāti;
Kiṁsu have sādutaraṁ rasānaṁ,
Kathaṁjīviṁ jīvitamāhu seṭṭhan”ti.

(Thế Tôn):

“Lòng tin đối người đời,
Là tài sản tối thượng.
Chánh pháp khéo hành trì,
Ðem lại chân an lạc.
Chân lý giữa các vị,
Là vị ngọt tối thượng.
Phải sống với trí tuệ,
Ðược gọi sống tối thượng”.
“Saddhīdha vittaṁ purisassa seṭṭhaṁ,
Dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti;
Saccaṁ have sādutaraṁ rasānaṁ,
Paññājīviṁ jīvitamāhu seṭṭhan”ti.

(Dạ-xoa):

“Làm sao vượt bộc lưu?
Làm sao vượt biển lớn?
Làm sao siêu khổ não?
Làm sao được thanh tịnh?”
“Kathaṁsu tarati oghaṁ,
kathaṁsu tarati aṇṇavaṁ;
Kathaṁsu dukkhamacceti,
kathaṁsu parisujjhatī”ti.

(Thế Tôn):

“Với tín, vượt bộc lưu.
Không phóng dật, vượt biển.
Tinh tấn, vượt khổ não.
Với trí, được thanh tịnh”.
“Saddhāya tarati oghaṁ,
appamādena aṇṇavaṁ;
Vīriyena dukkhamacceti,
paññāya parisujjhatī”ti.

(Dạ-xoa):

“Làm sao được trí tuệ?
Làm sao được tài sản?
Làm sao đạt danh xưng?
Làm sao kết bạn hữu?
Ðời này qua đời khác,
Làm sao không sầu khổ?”
“Kathaṁsu labhate paññaṁ,
kathaṁsu vindate dhanaṁ;
Kathaṁsu kittiṁ pappoti,
kathaṁ mittāni ganthati;
Asmā lokā paraṁ lokaṁ,
kathaṁ pecca na socatī”ti.

(Thế Tôn):

“Ai tin tưởng Chánh pháp,
Của bậc A-la-hán,
Chứng đạt được Niết-bàn,
Nghe pháp không phóng dật,
Bậc trí tự mình biết.
“Saddahāno arahataṁ,
dhammaṁ nibbānapattiyā;
Sussūsaṁ labhate paññaṁ,
appamatto vicakkhaṇo.

Làm gì khéo thích hợp,
Gánh vác các trách nhiệm,
Tinh tấn tạo của cải,
Chân thật đạt danh xưng,
Bố thí kết bằng hữu,
Đời này qua đời khác,
Như vậy không sầu khổ.
Patirūpakārī dhuravā,
uṭṭhātā vindate dhanaṁ;
Saccena kittiṁ pappoti,
dadaṁ mittāni ganthati;
Asmā lokā paraṁ lokaṁ,
evaṁ pecca na socati.

Tín nam gia chủ nào,
Tìm cầu bốn pháp này,
Chân thật và chế ngự,
Kiên trì và xả thí,
Vị ấy sau khi chết,
Không còn phải sầu khổ.
Yassete caturo dhammā,
saddhassa gharamesino;
Saccaṁ dhammo dhiti cāgo,
sa ve pecca na socati.

Hãy hỏi những người khác,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Có những pháp nào khác,
Tốt hơn bốn pháp này:
Chân thật và chế ngự,
Xả thí và kham nhẫn”.
Iṅgha aññepi pucchassu,
puthū samaṇabrāhmaṇe;
Yadi saccā dhammā cāgā,
khantyā bhiyyodha vijjatī”ti.

(Dạ-xoa):

“Tại sao, ta phải hỏi,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Khi ta nay đã hiểu,
Nhân nào tốt đời sau.
“Kathaṁ nu dāni puccheyyaṁ,
puthū samaṇabrāhmaṇe;
Yohaṁ ajja pajānāmi,
yo attho samparāyiko.

Phật đến Āḷavī,
Thật lợi ích cho ta,
Nay ta đã hiểu rõ,
Cho gì được quả lớn.
Atthāya vata me buddho,
vāsāyāḷavimāgamā;
Yohaṁ ajja pajānāmi,
yattha dinnaṁ mahapphalaṁ.

Tự ta sẽ bộ hành,
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác,
Ðảnh lễ bậc Chánh Giác,
Chánh pháp cùng Pháp tánh”.
So ahaṁ vicarissāmi,
Gāmā gāmaṁ purā puraṁ;
Namassamāno sambuddhaṁ,
Dhammassa ca sudhammatan”ti.

Indakavaggo paṭhamo.

Tassuddānaṁ

Indako sakka sūci ca,
Maṇibhaddo ca sānu ca;
Piyaṅkara punabbasu sudatto ca,
Dve sukkā cīraāḷavīti dvādasa.

Dứt Tương Ưng Dạ-Xoa.
Yakkhasaṁyuttaṁ samattaṁ.