WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 10.5 Sānu

Tương Ưng Bộ 10.5
Saṁyutta Nikāya 10.5

1. Phẩm Indaka
1. Indakavagga

Sānu
Sānusutta

Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại vườn ông Anāthapiṇḍika.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Lúc bấy giờ, Sānu, con một nữ cư sĩ bị Dạ-xoa ám ảnh.
Tena kho pana samayena aññatarissā upāsikāya sānu nāma putto yakkhena gahito hoti.

Nữ cư sĩ ấy than khóc, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:
Atha kho sā upāsikā paridevamānā tāyaṁ velāyaṁ imā gāthāyo abhāsi:

“Ngày mười bốn, mười lăm,
Và ngày tám nửa tháng,
Cả ngày lễ đặc biệt,
Khéo tu Bát quan trai,
Tuân trì lễ Bố-tát.
“Cātuddasiṁ pañcadasiṁ,
yā ca pakkhassa aṭṭhamī;
Pāṭihāriyapakkhañca,
aṭṭhaṅgasusamāgataṁ.

Trì giới Bát Quan Trai,
Những ai sống Phạm Hạnh,
Dạ-xoa không quấy họ,
Và chính ta được nghe,
Vị La-hán nói vậy,
Nhưng hôm nay, ta thấy,
Ngươi, Dạ-xoa Sānu.
Uposathaṁ upavasanti,
brahmacariyaṁ caranti ye;
Na tehi yakkhā kīḷanti,
iti me arahataṁ sutaṁ;
Sā dāni ajja passāmi,
yakkhā kīḷanti sānunā”ti.

“Ngày mười bốn, mười lăm,
Và ngày tám nửa tháng,
Cả ngày lễ đặc biệt,
Khéo tu Bát quan trai,
Tuân trì lễ Bố-tát.
“Cātuddasiṁ pañcadasiṁ,
yā ca pakkhassa aṭṭhamī;
Pāṭihāriyapakkhañca,
aṭṭhaṅgasusamāgataṁ.

Trì giới Bát Quan Trai,
Những ai sống Phạm Hạnh,
Dạ-xoa không quấy họ,
Được nghe A-la-hán,
Thật tốt lành cho người.
Uposathaṁ upavasanti,
brahmacariyaṁ caranti ye.
Na tehi yakkhā kīḷanti,
sāhu te arahataṁ sutaṁ;

Lời của vị ấy nói,
Làm thức tỉnh Sānu,
Dạ-xoa nói như vầy:
Chớ nên tạo ác nghiệp,
Công khai hay chỗ kín.
Sānuṁ pabuddhaṁ vajjāsi,
yakkhānaṁ vacanaṁ idaṁ;
Mākāsi pāpakaṁ kammaṁ,
āvi vā yadi vā raho.

Nếu người làm điều ác,
Sẽ làm hay đang làm,
Ông không thoát khổ đau,
Dầu cho chạy hay bay”.
Sace ca pāpakaṁ kammaṁ,
karissasi karosi vā;
Na te dukkhā pamutyatthi,
uppaccāpi palāyato”ti.

(Sānu được khỏi ám ảnh):

“Này mẹ, người ta khóc,
Là khóc cho người chết,
Hay khóc cho người sống,
Nhưng không được thấy mặt?
Này mẹ, chúng thấy con,
Hiện có mặt đang sống,
Vậy sao mẹ khóc con,
Này người mẹ thân yêu?”
“Mataṁ vā amma rodanti,
yo vā jīvaṁ na dissati;
Jīvantaṁ amma passantī,
kasmā maṁ amma rodasī”ti.

(Bà mẹ):

“Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người chết,
Hay khóc cho người sống,
Nhưng không được thấy mặt?
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống nhưng đã chết.
“Mataṁ vā putta rodanti,
yo vā jīvaṁ na dissati;
Yo ca kāme cajitvāna,
punarāgacchate idha;
Taṁ vāpi putta rodanti,
puna jīvaṁ mato hi so.

Nay con được kéo ra,
Khỏi than hừng đỏ rực,
Con còn muốn rơi vào,
Ðống than hồng ấy chăng?
Nay con được thoát ra,
Khỏi địa ngục đau khổ,
Con còn muốn rơi vào,
Cõi địa ngục ấy chăng?
Kukkuḷā ubbhato tāta,
kukkuḷaṁ patitumicchasi;
Narakā ubbhato tāta,
narakaṁ patitumicchasi.

Điều tốt lành cho con,
Hãy tiến về phía trước,
Nào ta than phiền ai,
Đồ vật thoát lửa cháy,
Con muốn đốt lại chăng?”
Abhidhāvatha bhaddante,
kassa ujjhāpayāmase;
Ādittā nīhataṁ bhaṇḍaṁ,
puna ḍayhitumicchasī”ti.