WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 10.7 Dạ-xoa Punabbasu

Tương Ưng Bộ 10.7
Saṁyutta Nikāya 10.7

1. Phẩm Indaka
1. Indakavagga

Dạ-xoa Punabbasu
Punabbasusutta

Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại vườn ông Anāthapiṇḍika.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo về vấn đề liên hệ đến Niết-bàn, tuyên thuyết, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.
Tena kho pana samayena bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṁyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṁseti.

Và các Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung mọi tâm tư, lóng tai nghe pháp.
Te ca bhikkhū aṭṭhiṁ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṁ suṇanti.

Rồi một nữ Dạ-xoa, mẹ Punabbasu dỗ con nín như sau:
Atha kho punabbasumātā yakkhinī puttake evaṁ tosesi:

“Hãy gìn giữ im lặng,
Này Uttarā!
Hãy gìn giữ im lặng,
Này Punabbasu!
Ðể mẹ được nghe pháp,
Đức Phật, bậc tối thượng.
“Tuṇhī uttarike hohi,
tuṇhī hohi punabbasu;
Yāvāhaṁ buddhaseṭṭhassa,
dhammaṁ sossāmi satthuno.

Thế Tôn giảng Niết-bàn,
Thoát ly mọi triền phược,
Mẹ đối với pháp ấy,
Thật cực kỳ ái lạc.
Nibbānaṁ bhagavā āha,
sabbaganthappamocanaṁ;
Ativelā ca me hoti,
asmiṁ dhamme piyāyanā.

Con đáng quý trong đời,
Chồng đáng quý trong đời,
Nhưng còn đối với mẹ,
Đạo Pháp đáng quý hơn.
Piyo loke sako putto,
piyo loke sako pati;
Tato piyatarā mayhaṁ,
assa dhammassa magganā.

Vì cả Chồng lẫn Con,
Dầu đáng quý đến đâu,
Không cứu ta thoát khổ,
Còn lắng nghe diệu Pháp,
Chúng sanh được thoát khổ.
Na hi putto pati vāpi,
piyo dukkhā pamocaye;
Yathā saddhammassavanaṁ,
dukkhā moceti pāṇinaṁ.

Đời chìm trong đau khổ,
Trói buộc già và chết,
Ta muốn được nghe Pháp,
Mà Ngài đã giác ngộ,
Giải thoát khỏi già chết,
Hãy nín đi con ơi!
Này Punabbasu.
Loke dukkhaparetasmiṁ,
Jarāmaraṇasaṁyute;
Jarāmaraṇamokkhāya,
Yaṁ dhammaṁ abhisambudhaṁ;
Taṁ dhammaṁ sotumicchāmi,
Tuṇhī hohi punabbasū”ti.

(Punabbasu):

“Thưa mẹ, con không nói,
Uttarā cũng im.
Mẹ hãy lắng nghe pháp,
Nghe diệu pháp được lạc,
Vì không biết diệu pháp,
Mẹ ơi, chúng ta khổ.
“Ammā na byāharissāmi,
tuṇhībhūtāyamuttarā;
Dhammameva nisāmehi,
saddhammassavanaṁ sukhaṁ;
Saddhammassa anaññāya,
ammā dukkhaṁ carāmase.

Giữa Nhân, Thiên mù quáng,
Ngài đem cho ánh sáng,
Giác ngộ, thân tối hậu,
Bậc Pháp nhãn thuyết pháp”.
Esa devamanussānaṁ,
sammūḷhānaṁ pabhaṅkaro;
Buddho antimasārīro,
dhammaṁ deseti cakkhumā”ti.

(Bà mẹ):

“Lành thay! Con có trí,
Ta sanh ra, cho bú,
Ái lạc pháp thanh tịnh,
Của Đức Phật tối thượng.
“Sādhu kho paṇḍito nāma,
putto jāto uresayo;
Putto me buddhaseṭṭhassa,
dhammaṁ suddhaṁ piyāyati

Này Punabbasu!
Hãy sống chơn an lạc,
Này, ta cùng đi lên,
Thấy được chơn Thánh đế,
Này con Uttara!
Hãy nghe theo lời ta”.
Punabbasu sukhī hohi,
ajjāhamhi samuggatā;
Diṭṭhāni ariyasaccāni,
uttarāpi suṇātu me”ti.