WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 11.4 Vepacitti

Tương Ưng Bộ 11.4
Saṁyutta Nikāya 11.4

Phẩm Một
1. Paṭhamavagga

Vepacitti
Vepacittisutta

Tại Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṁ.

“Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, cuộc chiến xảy ra giữa chư Thiên và các A-tu-la, rất là khốc liệt.
“Bhūtapubbaṁ, bhikkhave, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.

Này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la gọi các A-tu-la:
Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo asure āmantesi:

‘Này Thân hữu, trong cuộc chiến đang khởi lên giữa chư Thiên và loài A-tu-la, rất là khốc liệt, nếu các A-tu-la thắng và chư Thiên bại, hãy trói Thiên chủ Sakka (hai tay, hai chân) và thứ năm là cổ và dắt vị ấy đến trước mặt ta, trong thành của các A-tu-la.’
‘sace, mārisā, devānaṁ asurasaṅgāme samupabyūḷhe asurā jineyyuṁ devā parājineyyuṁ, yena naṁ sakkaṁ devānamindaṁ kaṇṭhapañcamehi bandhanehi bandhitvā mama santike āneyyātha asurapuran’ti.

Còn Thiên chủ Sakka gọi chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
Sakkopi kho, bhikkhave, devānamindo deve tāvatiṁse āmantesi:

‘Này Thân hữu, trong trận chiến giữa chư Thiên và các loài A-tu-la, trận chiến rất khốc liệt, nếu chư Thiên thắng và các loài A-tu-la bại, hãy trói Vepacitti, vua các A-tu-la hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, và dắt vị ấy lên trước mặt ta, trong giảng đường Sudhamma (Thiện Pháp).’
‘sace, mārisā, devānaṁ asurasaṅgāme samupabyūḷhe devā jineyyuṁ asurā parājineyyuṁ, yena naṁ vepacittiṁ asurindaṁ kaṇṭhapañcamehi bandhanehi bandhitvā mama santike āneyyātha sudhammasabhan’ti.

Nhưng này các Tỷ-kheo trong trận chiến ấy chư Thiên thắng và các loài A-tu-la bại.
Tasmiṁ kho pana, bhikkhave, saṅgāme devā jiniṁsu, asurā parājiniṁsu.

Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên trói A-tu-la vương Vepacitti, trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, rồi dẫn đến trước mặt Thiên chủ Sakka, trong giảng đường Sudhamma.
Atha kho, bhikkhave, devā tāvatiṁsā vepacittiṁ asurindaṁ kaṇṭhapañcamehi bandhanehi bandhitvā sakkassa devānamindassa santike ānesuṁ sudhammasabhaṁ.

Tại đây, này các Tỷ-kheo, vua các A-tu-la, Vepacitti bị trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, khi Thiên chủ Sakka đi vào và đi ra khỏi giảng đường Sudhamma, nhiếc mắng, mạ lị Thiên chủ Sakka với những lời thô ác, độc ngữ.
Tatra sudaṁ, bhikkhave, vepacitti asurindo kaṇṭhapañcamehi bandhanehi baddho sakkaṁ devānamindaṁ sudhammasabhaṁ pavisantañca nikkhamantañca asabbhāhi pharusāhi vācāhi akkosati paribhāsati.

Rồi này các Tỷ – kheo, người đánh xe Mātali nói lên những bài kệ với Thiên chủ Sakka:
Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṁ devānamindaṁ gāthāhi ajjhabhāsi:

‘Maghavā, Sakka,
Có phải là Ông sợ,
Hay vì Ông yếu hèn,
Nên mới phải kham nhẫn,
Khi Ông nghe ác ngữ,
Từ Vepacitti?’
‘Bhayā nu maghavā sakka,
dubbalyā no titikkhasi;
Suṇanto pharusaṁ vācaṁ,
sammukhā vepacittino’ti.

(Sakka):

‘Không phải vì sợ hãi,
Không phải vì yếu hèn,
Mà ta phải kham nhẫn,
Với Vepacitti.
Sao kẻ trí như ta,
Lại liên hệ người ngu?’
‘Nāhaṁ bhayā na dubbalyā,
khamāmi vepacittino;
Kathañhi mādiso viññū,
bālena paṭisaṁyuje’ti.

(Mātali):

‘Kẻ ngu càng nổi khùng,
Nếu không người đối trị,
Vậy với hình phạt nặng,
Kẻ trí trị người ngu’.
‘Bhiyyo bālā pabhijjeyyuṁ,
no cassa paṭisedhako;
Tasmā bhusena daṇḍena,
dhīro bālaṁ nisedhaye’ti.

(Sakka):

‘Như vậy theo ta nghĩ,
Chỉ đối trị người ngu,
Biết kẻ khác phẫn nộ,
Giữ niệm tâm an tịnh’.
‘Etadeva ahaṁ maññe,
bālassa paṭisedhanaṁ;
Paraṁ saṅkupitaṁ ñatvā,
yo sato upasammatī’ti.

(Mātali):

‘Hỡi này Vāsava,
Ta thấy lỗi lầm này,
Nên kham nhẫn như vậy,
Khi kẻ ngu nghĩ rằng:
“Vì sợ ta, nó nhẫn”,
Kẻ ngu càng hăng tiết,
Như bò thấy người chạy,
Càng hung hăng đuổi dài’.
‘Etadeva titikkhāya,
vajjaṁ passāmi vāsava;
Yadā naṁ maññati bālo,
bhayā myāyaṁ titikkhati;
Ajjhāruhati dummedho,
gova bhiyyo palāyinan’ti.

(Sakka):

‘Hãy để nó suy nghĩ,
Như ý nó mong muốn,
Nghĩ rằng, ta kham nhẫn,
Vì ta sợ hãi nó,
Trong tư lợi tối thượng,
Không gì hơn kham nhẫn.
‘Kāmaṁ maññatu vā mā vā,
bhayā myāyaṁ titikkhati;
Sadatthaparamā atthā,
khantyā bhiyyo na vijjati.

Người đầy đủ sức mạnh,
Chịu nhẫn người yếu kém,
Nhẫn ấy gọi tối thượng,
Thường nhẫn kẻ yếu hèn.
Yo have balavā santo,
dubbalassa titikkhati;
Tamāhu paramaṁ khantiṁ,
niccaṁ khamati dubbalo.

Sức mạnh của kẻ ngu,
Họ gọi là yếu hèn,
Không thể nào thử thách,
Người được Pháp hộ trì,
Thời xem là kẻ mạnh.
Abalaṁ taṁ balaṁ āhu,
yassa bālabalaṁ balaṁ;
Balassa dhammaguttassa,
paṭivattā na vijjati.

Sân lại với kẻ sân,
Tồi tệ hơn cho mình,
Lấy không sân thắng sân,
Chiến thắng trong trận khó.
Tasseva tena pāpiyo,
yo kuddhaṁ paṭikujjhati;
Kuddhaṁ appaṭikujjhanto,
saṅgāmaṁ jeti dujjayaṁ.

Khi biết kẻ kia sân,
Hãy làm vì lợi ích,
Cho người và cho mình,
Chánh niệm, tâm an tịnh.
Ubhinnamatthaṁ carati,
attano ca parassa ca;
Paraṁ saṅkupitaṁ ñatvā,
yo sato upasammati.

Ai không thiện xảo Pháp,
Coi người đang kham nhẫn,
Cho mình và cho người,
Dân chúng nghĩ là ngu’.
Ubhinnaṁ tikicchantānaṁ,
attano ca parassa ca;
Janā maññanti bāloti,
ye dhammassa akovidā’ti.

Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka ấy đã tự nuôi sống với quả công đức của mình, đã ngự trị và cai trị chư Thiên Tam thập tam thiên, sẽ nói lời tán thán nhẫn nhục và nhu hòa.
So hi nāma, bhikkhave, sakko devānamindo sakaṁ puññaphalaṁ upajīvamāno devānaṁ tāvatiṁsānaṁ issariyādhipaccaṁ rajjaṁ kārento khantisoraccassa vaṇṇavādī bhavissati.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Ông hãy làm chói sáng pháp luật này bằng cách trong khi xuất gia trong pháp và luật khéo giảng này, hãy thật hành kham nhẫn và nhu hòa.”
Idha kho taṁ, bhikkhave, sobhetha yaṁ tumhe evaṁ svākkhāte dhammavinaye pabbajitā samānā khamā ca bhaveyyātha soratā cā”ti.