WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 11.18 Đảnh Lễ Các Gia Chủ

Tương Ưng Bộ 11.18
Saṁyutta Nikāya 11.18

Phẩm Hai
2. Dutiyavagga

Đảnh Lễ Các Gia Chủ
Gahaṭṭhavandanāsutta

Tại Sāvatthī.
Sāvatthiyaṁ.

Ở đây … Thế Tôn nói:
Tatra …pe… etadavoca:

“Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với người đánh xe như sau:
“bhūtapubbaṁ, bhikkhave, sakko devānamindo mātaliṁ saṅgāhakaṁ āmantesi:

‘Này Mātali thân, hãy thắng ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe. Chúng ta hãy đi đến vườn cảnh để ngắm cảnh.’
‘yojehi, samma mātali, sahassayuttaṁ ājaññarathaṁ. Uyyānabhūmiṁ gacchāma subhūmiṁ dassanāyā’ti.

‘Thưa vâng, Tôn giả,’ này các Tỷ-kheo, người đánh xe Mātali vâng đáp Thiên chủ Sakka; sau khi thắng một ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe, liền báo với Thiên chủ Sakka:
‘Evaṁ, bhaddantavā’ti kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkassa devānamindassa paṭissutvā sahassayuttaṁ ājaññarathaṁ yojetvā sakkassa devānamindassa paṭivedesi:

‘Thưa Ngài, ngàn con ngựa khéo huấn luyện đã thắng vào cỗ xe. Nay Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời!’
‘yutto kho te, mārisa, sahassayutto ājaññaratho. Yassadāni kālaṁ maññasī’ti.

Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka từ cung điện Vejayanta đi xuống, chắp tay và đảnh lễ các phương hướng.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vejayantapāsādā orohanto añjaliṁ katvā sudaṁ puthuddisā namassati.

Rồi này các Tỷ-kheo, người đánh xe Mātali nói lên những bài kệ với Thiên chủ Sakka:
Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṁ devānamindaṁ gāthāya ajjhabhāsi:

‘Ai thạo tam Vệ-Đà,
Tất cả Sát-đế-ly,
Ở trên thế gian này,
Cả bốn vị Thiên Vương,
Ba mươi vị danh xưng,
Đều phải tôn kính Ngài,
Dạ-xoa ấy tên gì,
Mà Sakka đảnh lễ?’
‘Taṁ namassanti tevijjā,
sabbe bhummā ca khattiyā;
Cattāro ca mahārājā,
tidasā ca yasassino;
Atha ko nāma so yakkho,
yaṁ tvaṁ sakka namassasī’ti.

(Sakka):

‘Ai thạo tam Vệ-Đà,
Tất cả Sát-đế-ly,
Ở trên thế gian này,
Cả bốn vị Thiên Vương,
Ba mươi vị danh xưng,
Đều phải tôn kính ta.
‘Maṁ namassanti tevijjā,
sabbe bhummā ca khattiyā;
Cattāro ca mahārājā,
tidasā ca yasassino.

Nhưng ta chỉ đảnh lễ,
Bậc thành tựu giới hạnh,
Lâu ngày tu Thiền định,
Chơn chánh đã xuất gia,
Thành đạt và chứng được,
Cứu cánh chơn Phạm hạnh.
Ahañca sīlasampanne,
cirarattasamāhite;
Sammāpabbajite vande,
brahmacariyaparāyane.

Ngoài ra các gia chủ,
Làm công đức, giữ giới,
Nuôi dưỡng vợ đúng pháp,
Các cư sĩ như vậy,
Hỡi này Mātali,
Ta cũng sẽ đảnh lễ’.
Ye gahaṭṭhā puññakarā,
sīlavanto upāsakā;
Dhammena dāraṁ posenti,
te namassāmi mātalī’ti.

(Mātali):

‘Những ai ngài tôn kính,
Bậc tối thượng ở đời,
Sakka tôn kính ai,
Tôi đảnh lễ vị ấy,
Ôi này Vāsavā’.
‘Seṭṭhā hi kira lokasmiṁ,
ye tvaṁ sakka namassasi;
Ahampi te namassāmi,
ye namassasi vāsavā’ti.

(Thế Tôn):

Maghavā nói vậy,
Vua của các thiên chúng,
Chồng của nàng Sujā,
Ðảnh lễ các phương xong,
Leo lên cổ xe mình”.
Idaṁ vatvāna maghavā,
devarājā sujampati;
Puthuddisā namassitvā,
pamukho rathamāruhī”ti.