Tương Ưng Bộ 11.20
Saṁyutta Nikāya 11.20
Phẩm Hai
2. Dutiyavagga
Đảnh Lễ Chúng Tăng
Saṅghavandanāsutta
Gần Sāvatthī trong Rừng Jeta.
Sāvatthiyaṁ jetavane.
Ở đây … Thế Tôn nói như sau:
Tatra kho …pe… etadavoca:
“Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với người đánh xe Mātali:
“bhūtapubbaṁ, bhikkhave, sakko devānamindo mātaliṁ saṅgāhakaṁ āmantesi:
‘Này Mātali thân, hãy thắng ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe. Chúng ta hãy đi đến vườn cảnh để ngắm cảnh.’
‘yojehi, samma mātali, sahassayuttaṁ ājaññarathaṁ, uyyānabhūmiṁ gacchāma subhūmiṁ dassanāyā’ti.
‘Thưa vâng, Tôn giả,’ này các Tỷ-kheo, người đánh xe Mātali vâng đáp Thiên chủ Sakka, sau khi thắng một ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe, liền báo với Thiên chủ Sakka:
‘Evaṁ, bhaddantavā’ti kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkassa devānamindassa paṭissutvā, sahassayuttaṁ ājaññarathaṁ yojetvā sakkassa devānamindassa paṭivedesi:
‘Thưa Ngài, ngàn con ngựa khéo huấn luyện đã được thắng vào cổ xe. Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời’.
‘yutto kho te, mārisa, sahassayutto ājaññaratho, yassadāni kālaṁ maññasī’ti.
Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka từ cung điện Vejayanta đi xuống, chấp tay đảnh lễ Tỷ-kheo Tăng.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vejayantapāsādā orohanto añjaliṁ katvā sudaṁ bhikkhusaṅghaṁ namassati.
Này các Tỷ-kheo, rồi người đánh xe Mātali nói lên bài kệ với Thiên chủ Sakka:
Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṁ devānamindaṁ gāthāya ajjhabhāsi:
‘Chắc họ đảnh lễ Ngài,
Những người thân bất tịnh,
Chìm sâu trong thi thể,
Bị đói khát dày vò.
‘Tañhi ete namasseyyuṁ,
pūtidehasayā narā;
Nimuggā kuṇapamhete,
khuppipāsasamappitā.
Tại sao Ngài ưa thích,
Với những vị xuất gia,
Hỡi này Vāsava,
Hãy nói chúng tôi biết,
Sở hành các ẩn sĩ’.
Kiṁ nu tesaṁ pihayasi,
anāgārāna vāsava;
Ācāraṁ isinaṁ brūhi,
taṁ suṇoma vaco tavā’ti.
(Sakka):
‘Ðối với xuất gia ấy,
Ðiều khiến ta ưa thích,
Khi họ từ làng về,
Họ đi không tham vọng.
Hỡi này, Mātali.
‘Etaṁ tesaṁ pihayāmi,
anāgārāna mātali;
Yamhā gāmā pakkamanti,
anapekkhā vajanti te.
Không trữ lúa trong kho,
Trong ghè hay trong nồi,
Thức ăn họ có được,
Do người khác dâng đến,
Các vị sống như vậy,
Theo ước nguyện của mình.
Na tesaṁ koṭṭhe openti,
na kumbhi na kaḷopiyaṁ;
Paraniṭṭhitamesānā,
tena yāpenti subbatā.
Họ là bậc Hiền trí,
Lời nói đầy trí tuệ,
Sống yên tĩnh, thanh thản,
Giữa cuộc chiến hai bên,
Chư Thiên, A-tu-la,
Hay giữa các loài người,
Hỡi này, Mātali.
Sumantamantino dhīrā,
tuṇhībhūtā samañcarā;
Devā viruddhā asurehi,
puthu maccā ca mātali.
Không chiến giữa gây chiến,
Trầm tĩnh giữa đao gậy,
Không chấp giữa chấp trước.
Vậy ta kính lễ họ,
Hỡi này, Mātali’.
Aviruddhā viruddhesu,
attadaṇḍesu nibbutā;
Sādānesu anādānā,
te namassāmi mātalī’ti.
(Mātali):
‘Những ai ngài tôn kính,
Bậc tối thượng ở đời,
Sakka tôn kính ai,
Tôi đảnh lễ vị ấy,
Ôi này Vāsavā’.”
‘Seṭṭhā hi kira lokasmiṁ,
ye tvaṁ sakka namassasi;
Ahampi te namassāmi,
ye namassasi vāsavā’”ti.
Maghavā nói vậy,
Vua của các thiên chúng,
Chồng của nàng Sujā,
Ðảnh lễ Chúng Tăng xong,
Leo lên cổ xe mình”.
Idaṁ vatvāna maghavā,
devarājā sujampati;
Bhikkhusaṅghaṁ namassitvā,
pamukho rathamāruhīti”.
Dutiyo vaggo.
Tassuddānaṁ
Devā pana tayo vuttā,
daliddañca rāmaṇeyyakaṁ;
Yajamānañca vandanā,
tayo sakkanamassanāti.