WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 11.22 Xấu Xí

Tương Ưng Bộ 11.22
Saṁyutta Nikāya 11.22

Phẩm Ba
3. Tatiyavagga

Xấu Xí
Dubbaṇṇiyasutta

Gần Sāvatthī trong Rừng Jeta.
Sāvatthiyaṁ jetavane.

Tại đây … Thế Tôn nói như sau:
Tatra kho …pe… etadavoca:

“Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có một Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng, đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka.
“bhūtapubbaṁ, bhikkhave, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno ahosi.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên bực tức, chán ghét, phẫn uất:
Tatra sudaṁ, bhikkhave, devā tāvatiṁsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti:

‘Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay!
‘acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata bho.

Tên Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to lại đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka!’
Ayaṁ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno’ti.

Này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên càng bực tức, chán ghét, phẫn uất bao nhiêu, thời Dạ-xoa ấy càng đẹp hơn, càng dễ nhìn, càng dễ thương bấy nhiêu.
Yathā yathā kho, bhikkhave, devā tāvatiṁsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro ca.

Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đi đến Thiên chủ Sakka; sau khi đến, nói với Thiên chủ Sakka:
Atha kho, bhikkhave, devā tāvatiṁsā yena sakko devānamindo tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā sakkaṁ devānamindaṁ etadavocuṁ:

‘Ở đây, này Tôn giả, có một Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng đến ngồi trên chỗ ngồi của Ngài.
‘idha te, mārisa, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno.

Ở đây, này Tôn giả, chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bực tức, chán ghét, phẫn uất:
Tatra sudaṁ, mārisa, devā tāvatiṁsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti:

“Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay!
“acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata bho.

Dạ-xoa này xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng lại đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka!”
Ayaṁ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno”ti.

Nhưng này Tôn giả, chư Thiên ở Tam thập tam thiên càng bực tức, chán ghét, phẫn uất bao nhiêu, thời Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng ấy càng tốt đẹp, càng dễ nhìn và càng dễ thương bấy nhiêu.
Yathā yathā kho, mārisa, devā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro cāti.

Thưa Tôn giả, có phải Dạ-xoa ấy sẽ trở thành Dạ-xoa nuôi dưỡng với phẫn nộ.’
So hi nūna, mārisa, kodhabhakkho yakkho bhavissatī’ti.

Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đi đến Dạ-xoa nuôi dưỡng bằng phẫn nộ ấy; sau khi đến đắp thượng y vào một bên vai, đầu gối phải quỳ trên đất, chấp tay vái Dạ-xoa nuôi dưỡng với phẫn nộ và nói lên tên của mình ba lần:
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo yena so kodhabhakkho yakkho tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekaṁsaṁ uttarāsaṅgaṁ karitvā dakkhiṇajāṇumaṇḍalaṁ pathaviyaṁ nihantvā yena so kodhabhakkho yakkho tenañjaliṁ paṇāmetvā tikkhattuṁ nāmaṁ sāveti:

‘Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka! Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka!’
‘sakkohaṁ, mārisa, devānamindo, sakkohaṁ, mārisa, devānamindo’ti.

Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka càng nói lên tên của mình bao nhiêu thời Dạ-xoa ấy càng trở thành xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng bấy nhiêu;
Yathā yathā kho, bhikkhave, sakko devānamindo nāmaṁ sāvesi tathā tathā so yakkho dubbaṇṇataro ceva ahosi okoṭimakataro ca.

và sau khi trở thành càng xấu xí, càng thấp lùn, bụng biến dạng hơn, vị ấy biến mất tại chỗ ấy.
Dubbaṇṇataro ceva hutvā okoṭimakataro ca tatthevantaradhāyīti.

Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, sau khi ngồi xuống trên chỗ ngồi của mình, làm cho hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngay lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo sake āsane nisīditvā deve tāvatiṁse anunayamāno tāyaṁ velāyaṁ imā gāthāyo abhāsi:

‘Tâm ta không dễ sân,
Chớ để dòng xoáy cuốn,
Ta không sân hận lâu,
Sân ấy không kéo dài.
‘Na sūpahatacittomhi,
nāvattena suvānayo;
Na vo cirāhaṁ kujjhāmi,
kodho mayi nāvatiṭṭhati.

Khi ta nổi sân hận,
Không nói lời ác ngữ,
Ta không có tự khen,
Những đức tánh của mình,
Thấy lợi ích cho mình,
Thân này ta thu thúc’.”
Kuddhāhaṁ na pharusaṁ brūmi,
Na ca dhammāni kittaye;
Sanniggaṇhāmi attānaṁ,
Sampassaṁ atthamattano’”ti.