WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 4.7 Thụy Miên

Tương Ưng Bộ 4.7
Saṁyutta Nikāya 4.7

1. Phẩm Thứ Nhất
1. Paṭhamavagga

Thụy Miên
Supatisutta

Một thời Thế Tôn ở Rājagaha, Veluvana, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.
At one time the Buddha was staying near Rājagaha, in the Bamboo Grove, the squirrels’ feeding ground.

Rồi Thế Tôn sau khi đã đi kinh hành ngoài trời một phần lớn của đêm. Khi đêm đã gần mãn, Ngài rửa chân, bước vào tịnh xá, và nằm xuống phía hông bên phải theo thế nằm của con sư tử, hai chân gác lên nhau, chánh niệm tỉnh giác và nghĩ đến lúc thức dậy.
Atha kho bhagavā bahudevarattiṁ abbhokāse caṅkamitvā rattiyā paccūsasamayaṁ pāde pakkhāletvā vihāraṁ pavisitvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṁ kappesi pāde pādaṁ accādhāya sato sampajāno uṭṭhānasaññaṁ manasi karitvā.
He spent much of the night walking mindfully in the open. At the crack of dawn he washed his feet and entered his dwelling. He laid down in the lion’s posture—on the right side, placing one foot on top of the other—mindful and aware, and focused on the time of getting up.

Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ gāthāya ajjhabhāsi:
Then Māra the Wicked went up to the Buddha and addressed him in verse:

“Sao Ngài còn nằm ngủ,
Sao Ngài vẫn nằm ngủ,
Sao Ngài ngủ như vậy,
Như kẻ chết nằm co?
Nghĩ rằng nhà trống không,
Nên Ngài ngủ như vậy,
Sao Ngài ngủ như vậy,
Khi mặt trời đã mọc?”
“Kiṁ soppasi kiṁ nu soppasi,
Kimidaṁ soppasi dubbhago viya; 
Suññamagāranti soppasi,
Kimidaṁ soppasi sūriye uggate”ti.
“What, you’re asleep?
Really, you’re asleep?
You sleep like a loser—
what’s up with that?
You sleep, thinking that the hut is empty.
You sleep when the sun has come up—
what’s up with that?”

(Thế Tôn):

“Khi không còn tham ái,
Với lưới triền, nọc độc,
Người vậy được giải thoát,
Không còn bị lạc lối1Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli..
Ác ma! Bậc Giác Ngộ
Mọi sanh y diệt tận,
Vị ấy nếu có ngủ,
Các Ông làm được gì?”
“Yassa jālinī visattikā,
Taṇhā natthi kuhiñci netave;
Sabbūpadhiparikkhayā buddho,
Soppati kiṁ tavettha mārā”ti.
“For them there is no craving—
the weaver, the clinger—
to track them anywhere.
With the ending of all attachments
the awakened Buddha sleeps.
What’s that got to do with you, Māra?”

Rồi Ác ma biết được: ” Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta”, liền biến mất tại chỗ.
Atha kho māro pāpimā “jānāti maṁ bhagavā, jānāti maṁ sugato”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.
Then Māra the Wicked, thinking, “The Buddha knows me! The Holy One knows me!” miserable and sad, vanished right there.


Ghi chú:

  • 1
    Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli.