WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 4.21 Ða Số

Tương Ưng Bộ 4.21
Saṁyutta Nikāya 4.21

3. Phẩm Thứ Ba
3. Tatiyavagga

Ða Số
Sambahulasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
So I have heard.

Một thời Thế Tôn ở giữa các vị Sakkā, tại Silāvatī.
ekaṁ samayaṁ bhagavā sakkesu viharati silāvatiyaṁ.
At one time the Buddha was staying in the land of the Sakyans near Silāvatī.

Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo sống không xa Thế Tôn, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Tena kho pana samayena sambahulā bhikkhū bhagavato avidūre appamattā ātāpino pahitattā viharanti.
Now at that time several mendicants were meditating not far from the Buddha, diligent, keen, and resolute.

Rồi Ác ma biến hình thành một Bà-la-môn, với búi tóc lớn, mặc áo bằng da con linh dương, già yếu, lưng còm như xà nhà, hơi thở hổn hển, tay cầm gậy bằng gỗ udumbara, đi đến các Tỷ-kheo ấy; sau khi đến, nói với các Tỷ-kheo:
Atha kho māro pāpimā brāhmaṇavaṇṇaṁ abhinimminitvā mahantena jaṭaṇḍuvena ajinakkhipanivattho jiṇṇo gopānasivaṅko ghurughurupassāsī udumbaradaṇḍaṁ gahetvā yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te bhikkhū etadavoca:
Then Māra the Wicked manifested in the form of a brahmin with a large matted dreadlock, wearing an antelope hide. He was old, bent double, wheezing, and held a staff made of cluster fig tree wood. He went up to those mendicants and said,

—Chư Ðại đức xuất gia quá trẻ, niên thiếu, tóc còn đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong thời trẻ thơ của tuổi đời, không thọ hưởng các dục. Chư Ðại đức hãy thọ hưởng các ái dục của con người, chớ có bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối.
“daharā bhavanto pabbajitā susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikkīḷitāvino kāmesu. Bhuñjantu bhavanto mānusake kāme. Mā sandiṭṭhikaṁ hitvā kālikaṁ anudhāvitthā”ti.
“You’ve gone forth while young, reverends. You’re black-haired, blessed with youth, in the prime of life, and you’ve never flirted with sensual pleasures. Enjoy human sensual pleasures. Don’t give up what is visible in the present to chase after what takes effect over time.”

—Này Bà-la-môn, chúng tôi không bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối. Và này Bà-la-môn, chúng tôi bỏ những gì bị thời gian chi phối và chạy theo hiện tại. Này Bà-la-môn, Thế Tôn đã nói các dục bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, tai họa ở đấy càng nhiều hơn. Còn pháp này thuộc về hiện tại, không bị thời gian chi phối, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, và chỉ người trí mới tự mình giác hiểu.
“Na kho mayaṁ, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṁ hitvā kālikaṁ anudhāvāma. Kālikañca kho mayaṁ, brāhmaṇa, hitvā sandiṭṭhikaṁ anudhāvāma. Kālikā hi, brāhmaṇa, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Sandiṭṭhiko ayaṁ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṁ veditabbo viññūhī”ti.
“Brahmin, that’s not what we’re doing. We’re giving up what takes effect over time to chase after what is visible in the present. For the Buddha says that sensual pleasures take effect over time; they give much suffering and distress, and they are all the more full of drawbacks. But this teaching is apparent in the present life, immediately effective, inviting inspection, relevant, so that sensible people can know it for themselves.”

Khi nghe nói vậy, Ác ma cúi đầu, le lưỡi, trên trán hiện ra ba đường nhăn, chống gậy bỏ đi.
Evaṁ vutte, māro pāpimā sīsaṁ okampetvā jivhaṁ nillāletvā tivisākhaṁ nalāṭe nalāṭikaṁ vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkāmi.
When they had spoken, Māra the Wicked shook his head, waggled his tongue, raised his eyebrows until his brow puckered in three furrows, and departed leaning on his staff.

Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho te bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṁ etadavocuṁ:
Then those mendicants went up to the Buddha, bowed, sat down to one side, and told him what had happened.

—Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sống không xa Thế Tôn, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Rồi bạch Thế Tôn, một người Bà-la-môn, với búi tóc lớn, mặc áo bằng da con linh dương, già yếu, lưng còm như xà nhà, hơi thở hổn hển, tay cầm gậy bằng gỗ udumbara, đi đến chúng con; sau khi đến, nói với chúng con như sau:
“idha mayaṁ, bhante, bhagavato avidūre appamattā ātāpino pahitattā viharāma. Atha kho, bhante, aññataro brāhmaṇo mahantena jaṭaṇḍuvena ajinakkhipanivattho jiṇṇo gopānasivaṅko ghurughurupassāsī udumbaradaṇḍaṁ gahetvā yena mayaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā amhe etadavoca:

“ —Chư Ðại đức xuất gia quá trẻ, niên thiếu, tóc còn đen nhánh, trong buổi thanh xuân, trong thời trẻ thơ của tuổi đời, không thọ hưởng các dục. Chư Ðại đức, hãy thọ hưởng các ái dục của con người, chớ có bỏ hiện tại để chạy theo những gì bị thời gian chi phối”.
‘daharā bhavanto pabbajitā susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikkīḷitāvino kāmesu. Bhuñjantu bhavanto mānusake kāme. Mā sandiṭṭhikaṁ hitvā kālikaṁ anudhāvitthā’ti.

Khi được nghe nói vậy, bạch Thế Tôn, chúng con nói với Bà la môn ấy:
Evaṁ vutte, mayaṁ, bhante, taṁ brāhmaṇaṁ etadavocumha:

“ —Này Bà-la-môn, chúng tôi không bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối. Và này Bà-la-môn, chúng tôi bỏ những gì bị thời gian chi phối để chạy theo hiện tại. Này Bà-la-môn, Thế Tôn đã nói các dục bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, tai họa ở đây càng nhiều hơn. Còn pháp này thuộc về hiện tại, không bị thời gian chi phối, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng và chỉ người trí mới tự mình giác hiểu”.
‘na kho mayaṁ, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṁ hitvā kālikaṁ anudhāvāma. Kālikañca kho mayaṁ, brāhmaṇa, hitvā sandiṭṭhikaṁ anudhāvāma. Kālikā hi, brāhmaṇa, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Sandiṭṭhiko ayaṁ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṁ veditabbo viññūhī’ti.

Khi được nghe nói vậy, người Bà-la-môn ấy cúi đầu, le lưỡi, trên trán hiện ra ba đường nhăn, chống gậy rồi ra đi.
Evaṁ vutte, bhante, so brāhmaṇo sīsaṁ okampetvā jivhaṁ nillāletvā tivisākhaṁ nalāṭe nalāṭikaṁ vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkanto”ti.

—Này các Tỷ-kheo, người ấy không phải là Bà-la-môn, chính là Ác ma đi đến để làm mờ mắt các Ông.
“Neso, bhikkhave, brāhmaṇo. Māro eso pāpimā tumhākaṁ vicakkhukammāya āgato”ti.
The Buddha said, “Mendicants, that was no brahmin. That was Māra the Wicked who came to pull the wool over your eyes!”

Rồi Thế Tôn biết được ý nghĩa này, ngay khi ấy nói lên bài kệ:
Atha kho bhagavā etamatthaṁ viditvā tāyaṁ velāyaṁ imaṁ gāthaṁ abhāsi:
Then, understanding this matter, on that occasion the Buddha recited this verse:

“Ai thấy rõ khổ đau,
Và nguyên nhân đau khổ,
Làm sao người như vậy,
Có khuynh hướng các dục?
Sau khi biết sanh y
Là ràng buộc ở đời,
Người biết vậy nên học,
Giải trừ mọi buộc ràng.”
“Yo dukkhamaddakkhi yatonidānaṁ,
Kāmesu so jantu kathaṁ nameyya;
Upadhiṁ viditvā saṅgoti loke,
Tasseva jantu vinayāya sikkhe”ti.
“When a person has seen where suffering comes from
how could they incline towards sensual pleasures?
Realizing that attachment is a snare in the world,
a person would train to remove it.”