WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 4.24 Bảy Năm

Tương Ưng Bộ 4.24
Saṁyutta Nikāya 4.24

3. Phẩm Thứ Ba
3. Tatiyavagga

Bảy Năm
Sattavassānubandhasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
So I have heard.

Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelā trên bờ sông Neranjarā, dưới cây Ajapāla Nigrodha.
ekaṁ samayaṁ bhagavā uruvelāyaṁ viharati najjā nerañjarāya tīre ajapālanigrodhe.
At one time the Buddha was staying near Uruvelā at the goatherd’s banyan tree on the bank of the Nerañjarā River.

Lúc bấy giờ, Ác ma đi theo Thế Tôn trong suốt bảy năm, với hy vọng tìm cho được lỗi lầm, nhưng tìm không được.
Tena kho pana samayena māro pāpimā sattavassāni bhagavantaṁ anubandho hoti otārāpekkho otāraṁ alabhamāno.
Now at that time Māra the Wicked had been following the Buddha for seven years hoping to find a vulnerability without success.

Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ gāthāya ajjhabhāsi:
Then Māra the Wicked went up to the Buddha and addressed him in verse:

“Với tâm tư sầu muộn,
Ngài Thiền tư trong rừng,
Vì tài sản hao mòn,
Hay vì thèm tài sản?
Có thể tại xóm làng,
Ngài đã gây tội phạm?
Sao Ngài không làm thân
Với bà con xóm giềng?
Sao Ngài không có thể
Làm bạn với một ai?”
“Sokāvatiṇṇo nu vanamhi jhāyasi,
Vittaṁ nu jīno uda patthayāno;
Āguṁ nu gāmasmimakāsi kiñci,
Kasmā janena na karosi sakkhiṁ;
Sakkhī na sampajjati kenaci te”ti.
“Are you swamped by sorrow
that you meditate in the forest?
Have you lost a fortune, or do you long for one?
Or perhaps you’ve committed
some crime in the village?
Why don’t you get too close to people?
And why does no-one get close to you?”

(Thế Tôn):

“Mọi sầu căn nhổ sạch,
Không tội phạm, Ta Thiền,
Không sầu muộn, Ta Thiền.
Mọi hữu ái, đoạn tận,
Vô lậu, Ta Thiền định,
Này Bà con phóng dật!”
“Sokassa mūlaṁ palikhāya sabbaṁ,
Anāgu jhāyāmi asocamāno;
Chetvāna sabbaṁ bhavalobhajappaṁ,
Anāsavo jhāyāmi pamattabandhū”ti.
“I’ve dug out the root of sorrow completely.
I practice absorption free of guilt or sorrow.
I’ve cut off all greed and prayer for future lives.
Undefiled, I practice absorption,
O kinsman of the negligent!”

(Ác ma):

Ai nói: đây của tôi,
Và nói: là của tôi,
Nếu tâm Ngài nghĩ vậy,
Này hỡi vị sa môn
Ngài vẫn chưa thoát ta.1Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli. 
“Yaṁ vadanti mama yidanti,
ye vadanti mamanti ca;
Ettha ce te mano atthi,
na me samaṇa mokkhasī”ti.
“The things they call ‘mine’,
and those who say ‘it’s mine’:
if your mind remains there,
you won’t escape me, ascetic!”

(Thế Tôn):

Ai nói: đây của tôi,
Ta là người không nói,
Vậy ác-ma nên biết,
Con đường của Ta đi
Ông không thể nhìn thấy.2Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli. 
“Yaṁ vadanti na taṁ mayhaṁ,
ye vadanti na te ahaṁ;
Evaṁ pāpima jānāhi,
na me maggampi dakkhasī”ti.
“The things they speak of aren’t mine;
I’m not someone who speaks like that.
So know this, Wicked One:
you won’t even see the path I take.”

(Ác ma):

“Nếu Ngài chứng ngộ được,
Ðường an toàn bất tử,
Ngài hãy đi một mình.
Sao lại dạy người khác?”
“Sace maggaṁ anubuddhaṁ,
khemaṁ amatagāminaṁ;
Apehi gaccha tvameveko,
kimaññamanusāsasī”ti.
“If you’ve discovered the path
that’s safe, and leads to the deathless,
go and walk that path alone—
why teach it to anyone else?”

(Thế Tôn):

“Người đi đến bờ kia,
Họ hỏi nước bất tử,
Ðược hỏi, Ta trả lời,
Cảnh giới vô dư y.3Vô dư y Niết Bàn
“Amaccudheyyaṁ pucchanti,
ye janā pāragāmino;
Tesāhaṁ puṭṭho akkhāmi,
yaṁ saccaṁ taṁ nirūpadhin”ti.
“Those crossing to the far shore
ask what’s beyond the domain of Death.
When I’m asked, I explain to them
the truth without attachments.”

“Bạch Thế Tôn, ví như một hồ nước không xa làng hay thị trấn. Tại đấy có một con cua. Rồi bạch Thế Tôn, nhiều người con trai hay người con gái, từ làng ấy đi ra, đi đến hồ nước ấy. Sau khi đến, họ kéo con cua ấy lên khỏi nước và đặt nó trên đất liền. Bạch Thế Tôn, khi nào con cua ấy thò ra cái càng nào, những người con trai hay những người con gái ấy, lấy gậy hay lấy miểng sành chặt đứt, bẻ gãy hay đập nát cái càng ấy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con cua ấy, với mọi càng bị chặt đứt, bẻ gãy, đập nát, không thể bò xuống hồ nước ấy nữa.
“Seyyathāpi, bhante, gāmassa vā nigamassa vā avidūre pokkharaṇī. Tatrassa kakkaṭako. Atha kho, bhante, sambahulā kumārakā vā kumārikāyo vā tamhā gāmā vā nigamā vā nikkhamitvā yena sā pokkharaṇī tenupasaṅkameyyuṁ; upasaṅkamitvā taṁ kakkaṭakaṁ udakā uddharitvā thale patiṭṭhapeyyuṁ. Yaṁ yadeva hi so, bhante, kakkaṭako aḷaṁ abhininnāmeyya taṁ tadeva te kumārakā vā kumārikāyo vā kaṭṭhena vā kathalāya vā sañchindeyyuṁ sambhañjeyyuṁ sampalibhañjeyyuṁ. Evañhi so, bhante, kakkaṭako sabbehi aḷehi sañchinnehi sambhaggehi sampalibhaggehi abhabbo taṁ pokkharaṇiṁ otarituṁ.

“Sir, suppose there was a lotus pond not far from a town or village, and a crab lived there. Then several boys or girls would leave the town or village and go to the pond, where they’d pull out the crab and put it on dry land. Whenever that crab extended a claw, those boys or girls would snap, crack, and break it off with a stick or a stone. And when that crab’s claws had all been snapped, cracked, and broken off it wouldn’t be able to return down into that lotus pond.

Ví như lúc trước có những lộn xộn, mâu thuẫn, xuyên tạc gì đã được Thế Tôn chặt đứt, bẻ gẫy, đập nát. Và nay, bạch Thế Tôn, với hy vọng tìm cho được lỗi lầm, con không thể đến gần Thế Tôn được.”
Evameva kho, bhante, yāni kānici visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni, sabbāni tāni bhagavatā sañchinnāni sambhaggāni sampalibhaggāni. Abhabbo dānāhaṁ, bhante, puna bhagavantaṁ upasaṅkamituṁ yadidaṁ otārāpekkho”ti.

In the same way, sir, the Buddha has snapped, cracked, and broken off all my twists, ducks, and dodges. Now I’m not able to approach the Buddha again in hopes of finding a vulnerability.”

Rồi Ác ma, trước mặt Thế Tôn, trong nỗi niềm thất vọng, nói lên bài kệ này:
Atha kho māro pāpimā bhagavato santike imā nibbejanīyā gāthāyo abhāsi:

Then Māra the Wicked recited these verses of disappointment in the Buddha’s presence:

“Như quạ liệng hư không,
Thấy đá như miếng mỡ,
Tưởng rằng sẽ tìm được,
Miếng gì mềm và ngon.
“Medavaṇṇañca pāsāṇaṁ,
vāyaso anupariyagā;
Apettha muduṁ vindema,
api assādanā siyā.

“A crow once circled a stone
that looked like a lump of fat.
‘Perhaps I’ll find something tender,’ it thought,
‘perhaps there’s something tasty.’

Không tìm được gì ngon,
Liền từ đó bay đi,
Như quạ mổ hòn đá,
Thất vọng ta bỏ đi,
Giã từ Gotama.”
Aladdhā tattha assādaṁ,
vāyasetto apakkame;
Kākova selamāsajja,
nibbijjāpema gotamā”ti.

But finding nothing tasty,
the crow left that place.
Like the crow that pecked the stone,
I leave Gotama disappointed.”

Rồi Ác ma, sau khi nói lên những bài kệ ấy trước mặt Thế Tôn, từ chỗ ấy bỏ đi, rồi ngồi kiết-già trên đất, không xa Thế Tôn, im lặng, hổ ngươi, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, câm miệng, lấy chiếc gậy cào trên đất. 4Câu này có trong bản dịch của Ngài Minh Châu, nhưng không có trong bản tiếng Pāli và tiếng Anh. Trong bản dịch tiếng Pāli và tiếng Anh đây là câu đầu của bài kinh SN 4.25 Māradhītusutta. 


Ghi chú:

  • 1
    Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli.
  • 2
    Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli.
  • 3
    Vô dư y Niết Bàn
  • 4
    Câu này có trong bản dịch của Ngài Minh Châu, nhưng không có trong bản tiếng Pāli và tiếng Anh. Trong bản dịch tiếng Pāli và tiếng Anh đây là câu đầu của bài kinh SN 4.25 Māradhītusutta.