WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 5.2 Somā

Tương Ưng Bộ 5.2
Saṁyutta Nikāya 5.2

Phẩm Tỷ Kheo Ni
Bhikkhunīvagga

Somā
Somāsutta

Nhân duyên ở Sāvatthi.
Sāvatthinidānaṁ.
At Sāvatthī.

Rồi Tỷ-kheo-ni Somā vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthi để khất thực.
Atha kho somā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṁ piṇḍāya pāvisi.
Then the nun Somā robed up in the morning and, taking her bowl and robe, entered Sāvatthī for alms.

Khất thực ở Sāvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày. Sau khi đi sâu vào rừng, nàng ngồi dưới một gốc cây để thiền1Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli. ban ngày.
Sāvatthiyaṁ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṁ tenupasaṅkami divāvihārāya. Andhavanaṁ ajjhogāhetvā aññatarasmiṁ rukkhamūle divāvihāraṁ nisīdi.
She wandered for alms in Sāvatthī. After the meal, on her return from almsround, she went to the Dark Forest, plunged deep into it, and sat at the root of a tree for the day’s meditation.

Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Somā run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Somà; sau khi đến, nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Somā:
Atha kho māro pāpimā somāya bhikkhuniyā bhayaṁ chambhitattaṁ lomahaṁsaṁ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena somā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā somaṁ bhikkhuniṁ gāthāya ajjhabhāsi:
Then Māra the Wicked, wanting to make the nun Somā feel fear, terror, and goosebumps, wanting to make her fall away from immersion, went up to her and addressed her in verse:

“Ðịa vị khó chứng đạt,
Chỉ Thánh nhân chứng đạt,
Trí nữ nhân hai ngón2Đây là một thành ngữ của Pāli; ngầm hiểu là “việc nhỏ nhoi, việc kém cỏi, không thể thành tựu được việc lớn”.,
Sao hy vọng chứng đạt?”
“Yaṁ taṁ isīhi pattabbaṁ,
ṭhānaṁ durabhisambhavaṁ;
Na taṁ dvaṅgulapaññāya,
sakkā pappotumitthiyā”ti.
“That state’s very challenging;
it’s for the sages to attain.
It’s not possible for a woman,
with her two-fingered wisdom.”

Tỷ-kheo-ni Somā suy nghĩ: “Ai đã nói bài kệ này? Người hay không phải người?”
Atha kho somāya bhikkhuniyā etadahosi: “ko nu khvāyaṁ manusso vā amanusso vā gāthaṁ bhāsatī”ti?
Then the nun Somā thought, “Who’s speaking this verse, a human or a non-human?”

Tỷ-kheo-ni Somā suy nghĩ: “Ðây là Ác ma muốn làm cho ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ đó”.
Atha kho somāya bhikkhuniyā etadahosi: “māro kho ayaṁ pāpimā mama bhayaṁ chambhitattaṁ lomahaṁsaṁ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṁ bhāsatī”ti.
Then she thought, “This is Māra the Wicked, wanting to make me feel fear, terror, and goosebumps, wanting to make me fall away from immersion!”

Tỷ-kheo-ni Somā biết được: “Ðây là Ác ma”, liền nói lên bài kệ với Ác ma:
Atha kho somā bhikkhunī “māro ayaṁ pāpimā” iti viditvā māraṁ pāpimantaṁ gāthāhi paccabhāsi:
Then Somā, knowing that this was Māra the Wicked, replied to him in verse:

“Nữ tánh chướng ngại gì,
Khi tâm khéo Thiền định,
Khi trí tuệ triển khai,
Chánh quán pháp vi diệu?
“Itthibhāvo kiṁ kayirā,
cittamhi susamāhite;
Ñāṇamhi vattamānamhi,
sammā dhammaṁ vipassato.
“What difference does womanhood make
when the mind is serene,
and knowledge is present
as you rightly discern the Dhamma.

Ai tự mình tìm hỏi:
“Ta, nữ nhân, nam nhân,
Hay ta là ai khác?”
Xứng nói chuyện Ác ma,
Ác ma thật cân xứng.”
Yassa nūna siyā evaṁ,
Itthāhaṁ purisoti vā;
Kiñci vā pana aññasmi, 
Taṁ māro vattumarahatī”ti.
Surely someone who might think:
‘I am woman’, or ‘I am man’,
or ‘I am’ anything at all,
is fit for Māra to address.”

Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Somā đã biết ta”, nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho māro pāpimā “jānāti maṁ somā bhikkhunī”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.
Then Māra the Wicked, thinking, “The nun Somā knows me!” miserable and sad, vanished right there.


Ghi chú:

  • 1
    Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli.
  • 2
    Đây là một thành ngữ của Pāli; ngầm hiểu là “việc nhỏ nhoi, việc kém cỏi, không thể thành tựu được việc lớn”.