WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 5.4 Vijayā

Tương Ưng Bộ 5.4
Saṁyutta Nikāya 5.4

Phẩm Tỷ Kheo Ni
Bhikkhunīvagga

Vijayā
Vijayāsutta

Nhân duyên ở Sāvatthi.
Sāvatthinidānaṁ.
At Sāvatthī.

Tỷ-kheo-ni Vijayā vào buổi sáng đắp y … và ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền1Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli. ban ngày.
Atha kho vijayā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā …pe… aññatarasmiṁ rukkhamūle divāvihāraṁ nisīdi.
Then the nun Vijayā robed up in the morning … and sat at the root of a tree for the day’s meditation.

Ác Ma muốn làm cho Tỳ-kheo-ni Vijayā sợ hãi, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỳ-kheo-ni Vijayā; sau khi đến, nói lên bài kệ với Tỳ-kheo-ni Vijayā:
Atha kho māro pāpimā vijayāya bhikkhuniyā bhayaṁ chambhitattaṁ lomahaṁsaṁ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena vijayā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vijayaṁ bhikkhuniṁ gāthāya ajjhabhāsi:
Then Māra the Wicked, wanting to make the nun Vijayā feel fear, terror, and goosebumps, wanting to make her fall away from immersion, went up to her and addressed her in verse:

“Nàng vừa trẻ, vừa đẹp,
Ta vừa trẻ, vừa xuân,
Với cung đàn năm điệu,
Nàng cùng ta vui hưởng.”
“Daharā tvaṁ rūpavatī,
ahañca daharo susu;
Pañcaṅgikena turiyena,
ehayyebhiramāmase”ti.
“You’re so young and beautiful,
and I’m a youth in my prime.
Come, my lady, let us enjoy
the music of a five-piece band.”

Tỷ-kheo-ni Vijayā suy nghĩ:  “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?”
Atha kho vijayāya bhikkhuniyā etadahosi: “ko nu khvāyaṁ manusso vā amanusso vā gāthaṁ bhāsatī”ti?
Then the nun Vijayā thought, “Who’s speaking this verse, a human or a non-human?”

Tỷ-kheo-ni Vijayā suy nghĩ: “Ðây là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định nên đã nói lên bài kệ đó.”
Atha kho vijayāya bhikkhuniyā etadahosi: “māro kho ayaṁ pāpimā mama bhayaṁ chambhitattaṁ lomahaṁsaṁ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṁ bhāsatī”ti.
Then she thought, “This is Māra the Wicked, wanting to make me feel fear, terror, and goosebumps, wanting to make me fall away from immersion!”

Tỷ-kheo-ni Vijayā suy nghĩ: “Ðây là Ác ma”, liền nói lên bài kệ với Ác ma:
Atha kho vijayā bhikkhunī “māro ayaṁ pāpimā” iti viditvā māraṁ pāpimantaṁ gāthāhi paccabhāsi:
Then Vijayā, knowing that this was Māra the Wicked, replied to him in verse:

“Sắc, tiếng, vị, hương, xúc,
Làm cho ý đam mê,
Ta nhường lại Ác ma,
Ta đâu có cần chúng.
“Rūpā saddā rasā gandhā,
phoṭṭhabbā ca manoramā;
Niyyātayāmi tuyheva,
māra nāhaṁ tenatthikā.
“Sights, sounds, tastes, smells,
and touches so delightful.
I hand them right back to you, Māra,
for I have no use for them.

Với thân bất tịnh này,
Dễ hư hoại mong manh,
Ta bực phiền, tủi hổ,
Dục ái được đoạn tận.
Iminā pūtikāyena,
bhindanena pabhaṅgunā;
Aṭṭīyāmi harāyāmi,
kāmataṇhā samūhatā.
This body is foul,
decaying and frail.
I’m horrified and repelled by it,
and I’ve eradicated sensual craving.

Họ sanh hưởng sắc giới,
Chúng vọng vô sắc giới,
Thiền chứng an tịnh ấy,
Mọi nơi, mê ám diệt.”
Ye ca rūpūpagā sattā,
ye ca arūpaṭṭhāyino; 
Yā ca santā samāpatti,
sabbattha vihato tamo”ti.
There are beings in the realm of luminous form,
and others stuck in the formless.
and also those peaceful attainments:
I’ve destroyed the darkness regarding all of them.”

Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Aijayā đã biết ta”, buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho māro pāpimā “jānāti maṁ vijayā bhikkhunī”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.
Then Māra the Wicked, thinking, “The nun Vijayā knows me!” miserable and sad, vanished right there.


Ghi chú:

  • 1
    Người soạn thay đổi so với bản dịch của Ngài Minh Châu, dựa trên bản tiếng Pāli.