WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 7.9 Sundarikā

Tương Ưng Bộ 7.9
Saṁyutta Nikāya 7.9

1. Phẩm A-La-Hán
1. Arahantavagga

Sundarikā
Sundarikasutta

Một thời Thế Tôn ở giữa dân tộc Kosala, trên bờ sông Sundarika.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā kosalesu viharati sundarikāya nadiyā tīre.

Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja tế lửa trên bờ sông Sundarika, làm lễ cúng dường lửa.
Tena kho pana samayena sundarikabhāradvājo brāhmaṇo sundarikāya nadiyā tīre aggiṁ juhati, aggihuttaṁ paricarati.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja sau khi tế lửa, làm lễ cúng dường lửa xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn xung quanh tất cả bốn phương và nghĩ:
Atha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo aggiṁ juhitvā aggihuttaṁ paricaritvā uṭṭhāyāsanā samantā catuddisā anuvilokesi:

“Ai có thể hưởng họ món ăn cúng tế còn lại này?”
“ko nu kho imaṁ habyasesaṁ bhuñjeyyā”ti?

Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja thấy Thế Tôn đang ngồi dưới gốc cây, với chiếc Y kéo qua đầu,
Addasā kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṁ aññatarasmiṁ rukkhamūle sasīsaṁ pārutaṁ nisinnaṁ.

Thấy vậy, tay trái cầm món ăn cúng tế còn lại, tay phải cầm bình nước đi đến Thế Tôn.
Disvāna vāmena hatthena habyasesaṁ gahetvā dakkhiṇena hatthena kamaṇḍaluṁ gahetvā yena bhagavā tenupasaṅkami.

Thế Tôn nghe tiếng chân của Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nên kéo chiếc Y đang trùm trên đầu xuống.
Atha kho bhagavā sundarikabhāradvājassa brāhmaṇassa padasaddena sīsaṁ vivari.

Và Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nghĩ: “Ðầu vị này trọc, vị này là người trọc đầu”, nghĩ vậy, muốn trở lui.
Atha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo “muṇḍo ayaṁ bhavaṁ, muṇḍako ayaṁ bhavan”ti tatova puna nivattitukāmo ahosi.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja lại suy nghĩ:
Atha kho sundarikabhāradvājassa brāhmaṇassa etadahosi:

“Trọc đầu ở đây, một số Bà-la-môn cũng như vậy.
“muṇḍāpi hi idhekacce brāhmaṇā bhavanti;

Vậy ta hãy đến và hỏi vấn đề thọ sanh”.
yannūnāhaṁ taṁ upasaṅkamitvā jātiṁ puccheyyan”ti.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn:
Atha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ etadavoca:

“Thọ sanh Tôn giả là gì?”
“kiṁjacco bhavan”ti?

(Thế Tôn):

“Chớ hỏi về thọ sanh,
Hãy hỏi về sở hành.
Tùy theo mọi thứ củi,
Ngọn lửa được sanh lên.
Dầu thuộc dòng hạ tiện,
Bậc ẩn sĩ tinh cần,
Ðược xem như thượng sanh,
Biết tàm quý, trừ ác.
“Mā jātiṁ puccha caraṇañca puccha,
Kaṭṭhā have jāyati jātavedo;
Nīcākulīnopi muni dhitimā,
Ājānīyo hoti hirīnisedho.

Ðiều thuận bởi chân lý,
Thuần thục trong hành trì,
Thông đạt kinh Vệ-đà,
Phạm hạnh được viên thành,
Vị dâng lễ, thỉnh cầu,
Đúng thời nên cúng dường,
Bậc xứng đáng cúng dường”.
Saccena danto damasā upeto,
Vedantagū vusitabrahmacariyo;
Yaññopanīto tamupavhayetha,
Kālena so juhati dakkhiṇeyye”ti.

Sundarika:

“Vật cúng này của con,
Thật sự khéo cúng dường,
Nay con đã thấy được,
Bậc sáng suốt như Ngài.
Con không thấy một ai
Có thể sánh được Ngài,
Không có người nào khác
Thọ hưởng vật cúng này”.
“Addhā suyiṭṭhaṁ suhutaṁ mama yidaṁ,
Yaṁ tādisaṁ vedagumaddasāmi;
Tumhādisānañhi adassanena,
Añño jano bhuñjati habyasesan”ti.

“Tôn giả Gotama,
Hãy thọ hưởng vật cúng.
Ngài thật là Bà-la-môn,
Là bậc đáng tôn trọng”.
“Bhuñjatu bhavaṁ gotamo.
Brāhmaṇo bhavan”ti.

(Thế Tôn):

“Thức ăn do tụng chú,
Món ấy ta không dùng,
Với bậc có tri kiến,
Pháp ấy không thích hợp,
Hỡi này Bà-la-môn,
Chư Phật bỏ tụng chú,
Từ lâu đã niệm Pháp,
Hỡi này Bà-la-môn,
Các vị sống như vậy
“Gāthābhigītaṁ me abhojaneyyaṁ,
Sampassataṁ brāhmaṇa nesa dhammo;
Gāthābhigītaṁ panudanti buddhā,
Dhamme sati brāhmaṇa vuttiresā.

Bậc Đại Sĩ vẹn toàn,
Cúng dường phải khác biệt,
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Dao động được lắng dịu.
Với những bậc như vậy,
Ăn uống phải cúng dường,
Thật chính là phước điền,
Cho những ai cầu phước”.
Aññena ca kevalinaṁ mahesiṁ,
Khīṇāsavaṁ kukkuccavūpasantaṁ;
Annena pānena upaṭṭhahassu,
Khettañhi taṁ puññapekkhassa hotī”ti.

“Vậy thưa Tôn giả Gotama, con phải cho ai vật cúng còn lại này?”
“Atha kassa cāhaṁ, bho gotama, imaṁ habyasesaṁ dammī”ti?

“Này Bà-la-môn, trong toàn thế giới chư Thiên, Ma giới, Phạm thiên giới, trong chúng Sa-môn và Bà-la-môn, trong thế giới chư Thiên và loài Người, Ta không thấy một ai ăn vật cúng còn lại này có thể tiêu hóa được, ngoại trừ Như Lai hay đệ tử Như Lai.
“Na khvāhaṁ, brāhmaṇa, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yasseso habyaseso bhutto sammā pariṇāmaṁ gaccheyya aññatra, brāhmaṇa, tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā.

Này Bà-la-môn, vậy này Bà-la-môn, hãy quăng vật cúng còn lại này tại chỗ không có cỏ xanh, hay nhận chìm xuống nước, nơi không có loài hữu tình.”
Tena hi tvaṁ, brāhmaṇa, taṁ habyasesaṁ appaharite vā chaḍḍehi appāṇake vā udake opilāpehī”ti.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nhận chìm vật cúng còn lại ấy vào trong nước, nơi không có loài hữu tình.
Atha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo taṁ habyasesaṁ appāṇake udake opilāpesi.

Vật cúng ấy khi được quăng vào trong nước liền xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên.
Atha kho so habyaseso udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhūpāyati sampadhūpāyati.

Ví như lưỡi cày đốt nóng cả ngày, khi bỏ vào trong nước, bèn xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên.
Seyyathāpi nāma phālo divasaṁsantatto udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhūpāyati sampadhūpāyati;

Cũng vậy, vật cúng còn lại ấy khi được quăng vào trong nước bèn xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên.
evameva so habyaseso udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhūpāyati sampadhūpāyati.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja hoảng hốt, lông tóc dựng ngược, đi đến Thế Tôn; sau khi đến liền đứng một bên.
Atha kho sundarikabhāradvājo brāhmaṇo saṁviggo lomahaṭṭhajāto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṁ aṭṭhāsi.

Thế Tôn nói lên bài kệ cho Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja đang đứng một bên:
Ekamantaṁ ṭhitaṁ kho sundarikabhāradvājaṁ brāhmaṇaṁ bhagavā gāthāhi ajjhabhāsi:

“Hỡi này, Bà-la-môn,
Khi ông đốt củi lửa,
Chớ nghĩ là thanh tịnh,
Nó chỉ là bề ngoài,
Bậc thiện nhân, dạy rằng,
Đường này không thanh tịnh,
Cho những ai tìm kiếm,
Thanh tịnh ở bên ngoài.
“Mā brāhmaṇa dāru samādahāno,
Suddhiṁ amaññi bahiddhā hi etaṁ;
Na hi tena suddhiṁ kusalā vadanti,
Yo bāhirena parisuddhimicche.

Hỡi này, Bà-la-môn,
Ta từ bỏ củi lửa,
Ta chỉ nhen nhúm lên,
Ngọn lửa từ nội tâm,
Thường cháy, luôn chiếu sáng,
Ta, bậc A-la-hán,
Sống đời sống Phạm Hạnh.
Hitvā ahaṁ brāhmaṇa dārudāhaṁ,
Ajjhattamevujjalayāmi jotiṁ;
Niccagginī niccasamāhitatto,
Arahaṁ ahaṁ brahmacariyaṁ carāmi.

Hỡi này, Bà-la-môn,
Kiêu mạn là tài sản,
Sân hận là khói hương,
Dối trá là tro tàn,
Cái lưỡi là muỗng tế,
Tâm là chỗ tế tự,
Tự ngã là ngọn lửa.
Māno hi te brāhmaṇa khāribhāro,
Kodho dhumo bhasmani mosavajjaṁ;
Jivhā sujā hadayaṁ jotiṭhānaṁ,
Attā sudanto purisassa joti.

Hỡi này, Bà-la-môn,
Giáo Pháp là hồ nước,
Với giới hạnh là bờ,
Không cấu uế, trong sạch,
Ở đó, Thiện Nhơn tắm,
Vượt qua đến bờ kia,
Khô ráo, không bị ướt.
Dhammo rahado brāhmaṇa sīlatittho,
Anāvilo sabbhi sataṁ pasattho;
Yattha have vedaguno sinātā,
Anallagattāva taranti pāraṁ.

Chánh Pháp là chân lý,
Thu thúc, sống phạm hạnh,
Nhờ con đường trung đạo,
Chứng đạt điều tối thắng,
Hỡi này, Bà-la-môn,
Đảnh lễ bậc trực tâm,
Ta gọi tùy pháp hành”.
Saccaṁ dhammo saṁyamo brahmacariyaṁ,
Majjhe sitā brāhmaṇa brahmapatti;
Sa tujjubhūtesu namo karohi,
Tamahaṁ naraṁ dhammasārīti brūmī”ti.

Khi được nói vậy, Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, sundarikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! …” …
“abhikkantaṁ, bho gotama …pe…

Và Tôn giả Bhāradvāja trở thành một vị A-la-hán nữa.
aññataro ca panāyasmā bhāradvājo arahataṁ ahosīti.