WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 7.11 Nông Dân Bhāradvāja

Tương Ưng Bộ 7.11
Saṁyutta Nikāya 7.11

2. Phẩm Cư Sĩ
2. Upāsakavagga

Nông Dân Bhāradvāja
Kasibhāradvājasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Magadha, trên núi Nam Sơn, tại làng Bà-la-môn tên Ekanāḷa.
ekaṁ samayaṁ bhagavā magadhesu viharati dakkhiṇāgirismiṁ ekanāḷāyaṁ brāhmaṇagāme.

Lúc bấy giờ là thời gian gieo mạ, và Bà-la-môn Kasi Bhāradvāja sắp đặt sẵn sàng khoảng năm trăm lưỡi cày.
Tena kho pana samayena kasibhāradvājassa brāhmaṇassa pañcamattāni naṅgalasatāni payuttāni honti vappakāle.

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến nông trường của Bà-la-môn Kasi Bhāradvāja.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena kasibhāradvājassa brāhmaṇassa kammanto tenupasaṅkami.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kasi Bhāradvāja đang phân phát đồ ăn.
Tena kho pana samayena kasibhāradvājassa brāhmaṇassa parivesanā vattati.

Thế Tôn đi đến chỗ phân phát đồ ăn, rồi đứng một bên.
Atha kho bhagavā yena parivesanā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṁ aṭṭhāsi.

Bà-la-môn Kasi Bhāradvāja thấy Thế Tôn đang đứng một bên để khất thực, thấy vậy, bèn nói với Thế Tôn:
Addasā kho kasibhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṁ piṇḍāya ṭhitaṁ. Disvā bhagavantaṁ etadavoca:

“Này Sa-môn, tôi cày và tôi gieo mạ; sau khi cày và gieo mạ, tôi ăn.
“ahaṁ kho, samaṇa, kasāmi ca vapāmi ca, kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmi.

Này Sa-môn, Ông có cày và gieo mạ không; sau khi cày và gieo mạ, Ông ăn?”
Tvampi, samaṇa, kasassu ca vapassu ca, kasitvā ca vapitvā ca bhuñjassū”ti.

“Này Bà-la-môn, Ta cũng có cày và gieo mạ, sau khi cày và gieo mạ, Ta ăn.”
“Ahampi kho, brāhmaṇa, kasāmi ca vapāmi ca, kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmī”ti.

“Nhưng chúng tôi không thấy cái ách, cái cày, cái lưỡi cày, cái gậy đâm, hay các con bò đực của Tôn giả Gotama. Tuy vậy Tôn giả Gotama lại nói như sau:
“Na kho mayaṁ passāma bhoto gotamassa yugaṁ vā naṅgalaṁ vā phālaṁ vā pācanaṁ vā balībadde vā, atha ca pana bhavaṁ gotamo evamāha:

‘Này Bà-la-môn, Ta cũng có cày và gieo mạ, sau khi cày và gieo mạ, Ta ăn.’”
‘ahampi kho, brāhmaṇa, kasāmi ca vapāmi ca, kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmī’”ti.

Rồi Bà-la-môn Kasi Bhāradvāja nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Atha kho kasibhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṁ gāthāya ajjhabhāsi:

“Ông nói là nông phu,
Ta không thấy Ông cày,
Người nông phu được hỏi,
Hãy lên tiếng trả lời,
Sao chúng tôi biết được,
Ông thật sự có cày?”
“Kassako paṭijānāsi,
na ca passāmi te kasiṁ;
Kassako pucchito brūhi,
kathaṁ jānemu taṁ kasin”ti.

“Lòng tin là hột giống,
Khổ hạnh là nước mưa,
Trí tuệ đối với Ta,
Là cày và ách mang,
Tàm quý là cán cày,
Ý căn là dây cột,
Chánh niệm đối với Ta,
Là lưỡi cày, gậy đâm.
“Saddhā bījaṁ tapo vuṭṭhi,
paññā me yuganaṅgalaṁ;
Hirī īsā mano yottaṁ,
sati me phālapācanaṁ.

Thân khẩu được hộ trì,
Ðối với các món ăn,
Bụng Ta dùng vừa phải,
Chơn lý làm lưỡi hái,
Vị ngọt là giải thoát.
Kāyagutto vacīgutto,
āhāre udare yato;
Saccaṁ karomi niddānaṁ,
soraccaṁ me pamocanaṁ.

Tinh tấn là bò kéo,
Ðưa Ta tiến dần đến,
An ổn khỏi ách nạn,
Ði đến, không trở lui,
Chỗ Ta đi, không sầu.
Vīriyaṁ me dhuradhorayhaṁ,
yogakkhemādhivāhanaṁ;
Gacchati anivattantaṁ,
yattha gantvā na socati.

Như vậy, cày ruộng này,
Ðưa đến quả bất tử,
Sau khi cày cày này,
Mọi đau khổ được thoát”.
Evamesā kasī kaṭṭhā,
sā hoti amatapphalā;
Etaṁ kasiṁ kasitvāna,
sabbadukkhā pamuccatī”ti.

“Hãy ăn Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama thật là người nông phu.
“Bhuñjatu bhavaṁ gotamo. Kassako bhavaṁ.

Tôn giả Gotama cày, sự cày đưa đến quả bất tử.”
Yañhi bhavaṁ gotamo amatapphalampi kasiṁ kasatī”ti.

(Thế Tôn):

“Thức ăn do tụng chú,
Món ấy ta không dùng,
Với bậc có tri kiến,
Pháp ấy không thích hợp,
Hỡi này Bà-la-môn,
Chư Phật bỏ tụng chú,
Từ lâu đã niệm Pháp,
Hỡi này Bà-la-môn,
Các vị sống như vậy.
“Gāthābhigītaṁ me abhojaneyyaṁ,
Sampassataṁ brāhmaṇa nesa dhammo;
Gāthābhigītaṁ panudanti buddhā,
Dhamme sati brāhmaṇa vuttiresā.

Bậc Đại Sĩ vẹn toàn,
Cúng dường phải khác biệt,
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Dao động được lắng dịu,
Với những bậc như vậy,
Ăn uống phải cúng dường,
Thật chính là phước điền,
Cho những ai cầu phước”.
Aññena ca kevalinaṁ mahesiṁ,
Khīṇāsavaṁ kukkuccavūpasantaṁ;
Annena pānena upaṭṭhahassu,
Khettañhi taṁ puññapekkhassa hotī”ti.

Ðược nghe nói vậy, Bà-la-môn Kasi Bhāradvāja bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, kasibhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối cho người có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng.
“abhikkantaṁ, bho gotama …pe…

Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”
ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gatan”ti.