WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 7.18 Kaṭṭhahāra

Tương Ưng Bộ 7.18
Saṁyutta Nikāya 7.18

2. Phẩm Cư Sĩ
2. Upāsakavagga

Kaṭṭhahāra
Kaṭṭhahārasutta

Một thời Thế Tôn sống ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā kosalesu viharati aññatarasmiṁ vanasaṇḍe.

Lúc bấy giờ, nhiều thanh niên lượm củi, đệ tử của Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhāradvāja, đi đến khu rừng ấy. Sau khi đến, họ thấy Thế Tôn ngồi kiết-già trong khu rừng ấy, lưng thẳng và để niệm trước mặt. Thấy vậy, họ liền đi đến Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhāradvāja. Sau khi đến, họ nói với Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhāradvāja:
Tena kho pana samayena aññatarassa bhāradvājagottassa brāhmaṇassa sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā yena vanasaṇḍo tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā addasaṁsu bhagavantaṁ tasmiṁ vanasaṇḍe nisinnaṁ pallaṅkaṁ ābhujitvā ujuṁ kāyaṁ paṇidhāya parimukhaṁ satiṁ upaṭṭhapetvā. Disvāna yena bhāradvājagotto brāhmaṇo tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhāradvājagottaṁ brāhmaṇaṁ etadavocuṁ:

“Tôn giả có biết không,
“yagghe bhavaṁ jāneyyāsi.

tại một khu rừng kia, có vị Sa-môn ngồi kiết-già, lưng thẳng và để niệm trước mặt.”
Asukasmiṁ vanasaṇḍe samaṇo nisinno pallaṅkaṁ ābhujitvā ujuṁ kāyaṁ paṇidhāya parimukhaṁ satiṁ upaṭṭhapetvā”.

Rồi Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhāradvāja cùng với các thanh niên ấy đi đến khu rừng.
Atha kho bhāradvājagotto brāhmaṇo tehi māṇavakehi saddhiṁ yena so vanasaṇḍo tenupasaṅkami.

và thấy Thế Tôn tại khu rừng ấy, đang ngồi kiết-già, lưng thẳng và để niệm trước mặt.
Addasā kho bhagavantaṁ tasmiṁ vanasaṇḍe nisinnaṁ pallaṅkaṁ ābhujitvā ujuṁ kāyaṁ paṇidhāya parimukhaṁ satiṁ upaṭṭhapetvā.

Thấy vậy họ liền đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Disvāna yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ gāthāya ajjhabhāsi:

“Rừng sâu đầy sợ hãi,
Ngài vào nơi hoang vắng,
Trống trải và hoang vu,
Vẫn điềm tĩnh, uy nghi,
Với ngoại hình khả ái,
Tỷ-kheo, đang hành thiền.
“Gambhīrarūpe bahubherave vane,
Suññaṁ araññaṁ vijanaṁ vigāhiya;
Aniñjamānena ṭhitena vaggunā,
Sucārurūpaṁ vata bhikkhu jhāyasi.

Nơi đây không ca, hát,
Bậc ẩn sĩ độc cư,
Trong khu rừng sâu thẳm,
Như vậy, đối với con,
Thật là điều hy hữu,
Ngài sống thật hoan hỷ,
Độc cư ở trong rừng.
Na yattha gītaṁ napi yattha vāditaṁ,
Eko araññe vanavassito muni;
Accherarūpaṁ paṭibhāti maṁ idaṁ,
Yadekako pītimano vane vase.

Con nghĩ, Ngài ước nguyện,
Tái sanh làm thân hữu,
Chúa trời tam thập tam,
Có phải lý do này,
Ngài đến nơi hoang vắng,
Nhiệt thành tu khổ hạnh,
Để đạt đến Phạm Thiên”.
Maññāmahaṁ lokādhipatisahabyataṁ,
Ākaṅkhamāno tidivaṁ anuttaraṁ;
Kasmā bhavaṁ vijanamaraññamassito,
Tapo idha kubbasi brahmapattiyā”ti.

(Thế Tôn):

“Phàm có ước vọng gì,
Hay những ái lạc gì,
Những gì kẻ phàm phu,
Thường chấp trước các giới,
Các tham ái khởi lên,
Từ gốc rễ vô minh,
Tất cả Ta đoạn tận,
Diệt cả gốc lẫn rễ.
“Yā kāci kaṅkhā abhinandanā vā,
Anekadhātūsu puthū sadāsitā;
Aññāṇamūlappabhavā pajappitā,
Sabbā mayā byantikatā samūlikā.

Nay Ta không ước nguyện,
Không tham ái, chấp trước,
Ðối với tất cả pháp,
Ta thấy đều thanh tịnh,
Ðạt được Chánh Ðẳng Giác,
Và mục đích tối thượng,
Ta tu tập Thiền định,
Vắng lặng, không sợ hãi,
Hỡi này, Bà-la-môn”.
Svāhaṁ akaṅkho asito anūpayo,
Sabbesu dhammesu visuddhadassano;
Pappuyya sambodhimanuttaraṁ sivaṁ,
Jhāyāmahaṁ brahma raho visārado”ti.

Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhāradvāja bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, bhāradvājagotto brāhmaṇo bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! …
“abhikkantaṁ, bho gotama, abhikkantaṁ, bho gotama …pe…

từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”
ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gatan”ti.