Tương Ưng Bộ 7.22
Saṁyutta Nikāya 7.22
2. Phẩm Cư Sĩ
2. Upāsakavagga
Khomadussa
Khomadussasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka, tại thị trấn của dân chúng Sakka tên là Khomadussa.
ekaṁ samayaṁ bhagavā sakkesu viharati khomadussaṁ nāmaṁ sakyānaṁ nigamo.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào thị trấn Khomadussa để khất thực.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya khomadussaṁ nigamaṁ piṇḍāya pāvisi.
Lúc bấy giờ các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa đang tụ họp tại hội trường để giải quyết một vài vấn đề và trời đang mưa nhỏ hột.
Tena kho pana samayena khomadussakā brāhmaṇagahapatikā sabhāyaṁ sannipatitā honti kenacideva karaṇīyena, devo ca ekamekaṁ phusāyati.
Rồi Thế Tôn đi đến hội trường ấy.
Atha kho bhagavā yena sā sabhā tenupasaṅkami.
Các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa thấy Thế Tôn từ xa đi đến.
Addasaṁsu khomadussakā brāhmaṇagahapatikā bhagavantaṁ dūratova āgacchantaṁ.
Thấy vậy, họ bèn nói:
Disvāna etadavocuṁ:
“Những Sa-môn đầu trọc ấy là ai? Và họ có thể biết gì về quy tắc của hội trường?”
“ke ca muṇḍakā samaṇakā, ke ca sabhādhammaṁ jānissantī”ti?
Rồi Thế Tôn nói lên bài kệ với các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa:
Atha kho bhagavā khomadussake brāhmaṇagahapatike gāthāya ajjhabhāsi:
“Nơi không có thiện nhân,
Không thể có hội trường,
Ai nói sai lệch Pháp,
Không phải là thiện nhân,
Ai đoạn trừ tham dục,
sân hận và si mê,
Nói lên lời đúng Pháp,
Ấy gọi là thiện nhân”.
“Nesā sabhā yattha na santi santo,
Santo na te ye na vadanti dhammaṁ;
Rāgañca dosañca pahāya mohaṁ,
Dhammaṁ vadantā ca bhavanti santo”ti.
Khi được nghe nói vậy, các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, khomadussakā brāhmaṇagahapatikā bhagavantaṁ etadavocuṁ:
“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
“abhikkantaṁ, bho gotama, abhikkantaṁ, bho gotama.
Tôn giả Gotama như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem ánh sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.
Seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṁ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṁ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṁ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṁ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti;
Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
evamevaṁ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito.
Chúng con xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng.
Ete mayaṁ bhavantaṁ gotamaṁ saraṇaṁ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca.
Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.”
Upāsake no bhavaṁ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupete saraṇaṁ gate”ti.
Upāsakavaggo dutiyo.
Tassuddānaṁ
Kasi udayo devahito,
Aññataramahāsālaṁ;
Mānatthaddhaṁ paccanīkaṁ,
Navakammi kaṭṭhahāraṁ;
Mātuposakaṁ bhikkhako,
Saṅgāravo ca khomadussena dvādasāti.
Dứt Tương Ưng Bà-La-Môn.
Brāhmaṇasaṁyuttaṁ samattaṁ.