WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 8.1 Xuất Ly

Tương Ưng Bộ 8.1
Saṁyutta Nikāya 8.1

1. Phẩm Vaṅgīsa
1. Vaṅgīsavagga

Xuất Ly
Nikkhantasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời Tôn giả Vaṅgīsa trú ở Āḷavī, tại ngôi đền ở Aggāḷava, cùng với Tôn giả Nigrodhakappa, là vị giáo thọ sư.
ekaṁ samayaṁ āyasmā vaṅgīso āḷaviyaṁ viharati aggāḷave cetiye āyasmatā nigrodhakappena upajjhāyena saddhiṁ.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Vaṅgīsa là tân Tỷ-kheo, xuất gia chưa bao lâu, được ở lại để coi ngôi tịnh xá.
Tena kho pana samayena āyasmā vaṅgīso navako hoti acirapabbajito ohiyyako vihārapālo.

Rồi một số đông phụ nữ, sau khi trang điểm, đi đến khu vườn để xem tịnh xá.
Atha kho sambahulā itthiyo samalaṅkaritvā yena aggāḷavako ārāmo tenupasaṅkamiṁsu vihārapekkhikāyo.

Tôn giả Vaṅgīsa thấy các phụ nữ ấy, tâm sanh bất mãn, bị lòng dục quấy phá.
Atha kho āyasmato vaṅgīsassa tā itthiyo disvā anabhirati uppajjati, rāgo cittaṁ anuddhaṁseti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa suy nghĩ:
Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi:

“Thật bất lợi cho ta! Thật không lợi cho ta! Thật bất hạnh cho ta! Thật không may cho ta!
“alābhā vata me, na vata me lābhā; dulladdhaṁ vata me, na vata me suladdhaṁ;

Vì rằng tâm sanh bất mãn nơi ta, và ta bị lòng dục quấy phá. Làm thế nào ngay hiện tại có người khác có thể đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm khởi lên thỏa mãn cho ta?
yassa me anabhirati uppannā, rāgo cittaṁ anuddhaṁseti, taṁ kutettha labbhā, yaṁ me paro anabhiratiṁ vinodetvā abhiratiṁ uppādeyya.

Hay là ta tự mình đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm cho thỏa mãn khởi lên cho ta?”
Yannūnāhaṁ attanāva attano anabhiratiṁ vinodetvā abhiratiṁ uppādeyyan”ti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa sau khi tự mình đoạn trừ bất mãn và làm cho thỏa mãn khởi lên, liền ngay trong lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
Atha kho āyasmā vaṅgīso attanāva attano anabhiratiṁ vinodetvā abhiratiṁ uppādetvā tāyaṁ velāyaṁ imā gāthāyo abhāsi:

“Với ta đã xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Tâm tư nay chạy loạn,
Khởi lên từ đen tối.
“Nikkhantaṁ vata maṁ santaṁ,
agārasmānagāriyaṁ;
Vitakkā upadhāvanti,
pagabbhā kaṇhato ime.

Dù trăm ngàn hoàng tử,
Thiện xảo trong cung tiễn,
Bao vây khắp tứ phía,
Ta vẫn không bỏ chạy.
Uggaputtā mahissāsā,
sikkhitā daḷhadhammino;
Samantā parikireyyuṁ,
sahassaṁ apalāyinaṁ.

Dẫu nữ nhân có đến,
Nhiều hơn và đông hơn,
Sẽ không não loạn ta,
Vì ta trú Chánh pháp,
Sacepi etato bhiyyo,
āgamissanti itthiyo;
Neva maṁ byādhayissanti,
dhamme samhi patiṭṭhitaṁ.

Chính tai ta được nghe,
Phật, dòng họ mặt trời,
Thuyết giảng Niết-bàn đạo,
Ở đây ta ưa thích.
Sakkhī hi me sutaṁ etaṁ,
buddhassādiccabandhuno;
Nibbānagamanaṁ maggaṁ,
tattha me nirato mano.

Ác ma, ngươi có đến,
An trú, ta hướng tới,
Ta đảm bảo được rằng,
Ngươi không thấy đường ta”.(*)
Evañce maṁ viharantaṁ,
pāpima upagacchasi;
Tathā maccu karissāmi,
na me maggampi dakkhasī”ti.