WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 8.7 Tự Tứ

Tương Ưng Bộ 8.7
Saṁyutta Nikāya 8.7

1. Phẩm Vaṅgīsa
1. Vaṅgīsavagga

Tự Tứ
Pavāraṇāsutta

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, Ðông Viên Tự, Lộc Mẫu giảng đường, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều chứng quả A-la-hán.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati pubbārāme migāramātupāsāde mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehi.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn, nhân ngày trăng tròn Bố-tát Tự tứ, Ngài ngồi giữa trời, xung quanh chúng Tỷ-kheo đoanh vây.
Tena kho pana samayena bhagavā tadahuposathe pannarase pavāraṇāya bhikkhusaṅghaparivuto abbhokāse nisinno hoti.

Rồi Thế Tôn, sau khi nhìn quanh chúng Tỷ-kheo im lặng, liền bảo các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā tuṇhībhūtaṁ bhikkhusaṅghaṁ anuviloketvā bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo, nay Ta mời các Ông nói lên, các Ông có điều gì chỉ trích Ta hay không, về thân hay về lời nói?”
“handa dāni, bhikkhave, pavāremi vo. Na ca me kiñci garahatha kāyikaṁ vā vācasikaṁ vā”ti.

Ðược nghe như vậy, Tôn giả Sāriputta từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, āyasmā sāriputto uṭṭhāyāsanā ekaṁsaṁ uttarāsaṅgaṁ karitvā yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, chúng con không có chỉ trích gì Thế Tôn về thân hay về lời nói.
“na kho mayaṁ, bhante, bhagavato kiñci garahāma kāyikaṁ vā vācasikaṁ vā.

Bạch Thế Tôn, con đường chưa sanh khởi, Thế Tôn làm cho sanh khởi; con đường chưa được rõ biết, Thế Tôn làm cho rõ biết; con đường chưa được thuyết giảng, Thế Tôn thuyết giảng.
Bhagavā hi, bhante, anuppannassa maggassa uppādetā, asañjātassa maggassa sañjanetā, anakkhātassa maggassa akkhātā, maggaññū maggavidū maggakovido.

Thế Tôn biết đạo, hiểu đạo, thiện xảo về đạo; và bạch Thế Tôn, các đệ tử nay là những vị sống hành đạo, và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau.
Maggānugā ca, bhante, etarahi sāvakā viharanti pacchā samannāgatā;

Và bạch Thế Tôn, con xin mời Thế Tôn nói lên, Thế Tôn có điều gì chỉ trích con hay không, về thân hay về lời nói?”
ahañca kho, bhante, bhagavantaṁ pavāremi. Na ca me bhagavā kiñci garahati kāyikaṁ vā vācasikaṁ vā”ti.

“Này Sāriputta, Ta không có gì chỉ trích Ông về thân, hay về lời nói.
“Na khvāhaṁ te, sāriputta, kiñci garahāmi kāyikaṁ vā vācasikaṁ vā.

Này Sāriputta, Ông là bậc Ðại trí. Này Sāriputta, Ông là bậc Quảng trí. Này Sāriputta, Ông là bậc Tốc trí. Này Sāriputta, Ông là bậc Tiệp trí. Này Sāriputta, Ông là bậc Nhuệ trí. Này Sāriputta, Ông là bậc Thể nhập trí.
Paṇḍito tvaṁ, sāriputta, mahāpañño tvaṁ, sāriputta, puthupañño tvaṁ, sāriputta, hāsapañño tvaṁ, sāriputta, javanapañño tvaṁ, sāriputta, tikkhapañño tvaṁ, sāriputta, nibbedhikapañño tvaṁ, sāriputta.

Này Sāriputta, ví như trưởng tử, con vua Chuyển luân vương, chơn chánh vận chuyển bánh xe đã được vua cha vận chuyển.
Seyyathāpi, sāriputta, rañño cakkavattissa jeṭṭhaputto pitarā pavattitaṁ cakkaṁ sammadeva anuppavatteti;

Cũng vậy, này Sāriputta, Ông chơn chánh chuyển vận pháp luân vô thượng đã được Ta chuyển vận.”
evameva kho tvaṁ, sāriputta, mayā anuttaraṁ dhammacakkaṁ pavattitaṁ sammadeva anuppavattesī”ti.

“Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn không có gì chỉ trích con về thân hay về lời nói,
“No ce kira me, bhante, bhagavā kiñci garahati kāyikaṁ vā vācasikaṁ vā.

vậy bạch Thế Tôn, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Thế Tôn có gì chỉ trích hay không, về thân hay về lời nói?”
Imesaṁ pana, bhante, bhagavā pañcannaṁ bhikkhusatānaṁ na kiñci garahati kāyikaṁ vā vācasikaṁ vā”ti.

“Này Sāriputta, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Ta không có gì chỉ trích về thân hay về lời nói.
“Imesampi khvāhaṁ, sāriputta, pañcannaṁ bhikkhusatānaṁ na kiñci garahāmi kāyikaṁ vā vācasikaṁ vā.

Này Sāriputta, trong khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Tam minh, sáu mươi Tỷ- kheo là bậc chứng được sáu Thắng trí, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Câu giải thoát, và các vị còn lại là bậc Tuệ giải thoát.”
Imesañhi, sāriputta, pañcannaṁ bhikkhusatānaṁ saṭṭhi bhikkhū tevijjā, saṭṭhi bhikkhū chaḷabhiññā, saṭṭhi bhikkhū ubhatobhāgavimuttā, atha itare paññāvimuttā”ti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṁsaṁ uttarāsaṅgaṁ karitvā yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con.”
“paṭibhāti maṁ, bhagavā, paṭibhāti maṁ, sugatā”ti.

Thế Tôn nói: “Này Vaṅgīsa, hãy nói lên vấn đề ấy!”
“Paṭibhātu taṁ, vaṅgīsā”ti bhagavā avoca.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa trước mặt Thế Tôn nói lên những bài kệ tán thán thích ứng:
Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṁ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi:

“Nay ngày rằm thanh tịnh,
Năm trăm Tỷ-kheo họp,
Bậc Thánh cắt kiết phược,
Vô phiền, đoạn tái sanh.
“Ajja pannarase visuddhiyā,
Bhikkhū pañcasatā samāgatā;
Saṁyojanabandhanacchidā,
Anīghā khīṇapunabbhavā isī.

Như vua Chuyển luân vương,
Ðại thần hầu xung quanh,
Du hành khắp bốn phương,
Ðất này đến hải biên.
Cakkavattī yathā rājā,
amaccaparivārito;
Samantā anupariyeti,
sāgarantaṁ mahiṁ imaṁ.

Như vậy, các đệ tử,
Ðã chứng được Tam minh,
Sát hại được tử thần,
Những vị này hầu hạ,
Bậc thắng trận chiến trường,
Chủ lữ hành vô thượng.
Evaṁ vijitasaṅgāmaṁ,
satthavāhaṁ anuttaraṁ;
Sāvakā payirupāsanti,
tevijjā maccuhāyino.

Tất cả con Thế Tôn,
Không ai là vô dụng,
Xin chí thành đảnh lễ,
Bậc nhổ tên khát ái,
Xin tâm thành cung kính,
Bậc dòng họ mặt trời”.
Sabbe bhagavato puttā,
palāpettha na vijjati;
Taṇhāsallassa hantāraṁ,
vande ādiccabandhunan”ti.