WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 8.8 Hơn Một Ngàn

Tương Ưng Bộ 8.8
Saṁyutta Nikāya 8.8

1. Phẩm Vaṅgīsa
1. Vaṅgīsavagga

Hơn Một Ngàn
Parosahassasutta

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, Jetavana, tại vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc) cùng đại chúng Tỷ-kheo 1.250 vị.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ aḍḍhatelasehi bhikkhusatehi.

Lúc bấy giờ Thế Tôn với bài pháp thoại liên hệ đến Niết-bàn, thuyết giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.
Tena kho pana samayena bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṁyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṁseti.

Và những Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung tất cả tâm tư, lắng tai nghe pháp.
Te ca bhikkhū aṭṭhiṁ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṁ suṇanti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa suy nghĩ:
Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi:

“Nay Thế Tôn với bài pháp thoại liên hệ đến Niết-bàn, đang thuyết giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.
“ayaṁ kho bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṁyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṁseti.

Và những Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung tất cả tâm tư, lắng tai nghe pháp.
Te ca bhikkhū aṭṭhiṁ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṁ suṇanti.

Vậy trước mặt Thế Tôn, ta hãy nói lên những bài kệ tán thán thích ứng.”
Yannūnāhaṁ bhagavantaṁ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthaveyyan”ti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṁsaṁ uttarāsaṅgaṁ karitvā yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con.”
“paṭibhāti maṁ, bhagavā, paṭibhāti maṁ, sugatā”ti.

Thế Tôn đáp: “Này Vaṅgīsa, hãy nói lên vấn đề ấy!”
“Paṭibhātu taṁ, vaṅgīsā”ti bhagavā avoca.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa, trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán thích ứng:
Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṁ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi:

“Hơn một ngàn Tỷ-kheo,
Tôn kính bậc Thiện Thệ,
Ngài thuyết pháp vô cấu,
Niết-bàn, không sợ hãi.
“Parosahassaṁ bhikkhūnaṁ,
sugataṁ payirupāsati;
Desentaṁ virajaṁ dhammaṁ,
nibbānaṁ akutobhayaṁ.

Họ nghe pháp vô cấu,
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Trước mặt chúng Tỷ-kheo,
Bậc Chánh Giác chói sáng.
Suṇanti dhammaṁ vimalaṁ,
sammāsambuddhadesitaṁ;
Sobhati vata sambuddho,
bhikkhusaṅghapurakkhato.

Thế Tôn, bậc Long Tượng,
Bậc ẩn sĩ thứ bảy,
Như đám mây mưa lớn,
Rưới lên các đệ tử.
Nāganāmosi bhagavā,
isīnaṁ isisattamo;
Mahāmeghova hutvāna,
sāvake abhivassati.

Con từ nghỉ trưa đến,
Muốn yết kiến Ðạo Sư,
Ôi bậc Ðại Anh hùng!
Con là đệ tử Ngài,
Con tên Vaṅgīsa,
Ðảnh lễ dưới chân Ngài”.
Divāvihārā nikkhamma,
satthudassanakamyatā;
Sāvako te mahāvīra,
pāde vandati vaṅgiso”ti.

“Này Vaṅgīsa, những bài kệ này của Ông, có phải Ông suy nghĩ từ trước hay được khởi lên tại chỗ?”
“Kiṁ nu te, vaṅgīsa, imā gāthāyo pubbe parivitakkitā, udāhu ṭhānasova taṁ paṭibhantī”ti?

“Bạch Thế Tôn, những bài kệ này của con không phải suy nghĩ từ trước, chính được khởi lên tại chỗ.”
“Na kho me, bhante, imā gāthāyo pubbe parivitakkitā, atha kho ṭhānasova maṁ paṭibhantī”ti.

“Vậy này Vaṅgīsa, hãy cho nhiều bài kệ nữa, không suy nghĩ từ trước, được khởi lên tại chỗ.”
“Tena hi taṁ, vaṅgīsa, bhiyyoso mattāya pubbe aparivitakkitā gāthāyo paṭibhantū”ti.

“Thưa vâng bạch Thế Tôn,” Tôn giả Vaṅgīsa vâng đáp Thế Tôn và nói lên những bài kệ tán thán Thế Tôn; những bài kệ chưa được suy nghĩ từ trước:
“Evaṁ, bhante”ti kho āyasmā vaṅgīso bhagavato paṭissutvā bhiyyoso mattāya bhagavantaṁ pubbe aparivitakkitāhi gāthāhi abhitthavi:

“Thắng ác ma, tà đạo,
Ngài sống chướng ngại đoạn.
Hãy thấy bậc Giải Thoát,
Thoát ly mọi hệ phược,
Phân tích Pháp từng phần.
“Ummaggapathaṁ mārassa abhibhuyya,
Carasi pabhijja khilāni;
Taṁ passatha bandhapamuñcakaraṁ,
Asitaṁ bhāgaso pavibhajaṁ.

Ngài giải thích nhiều cách,
Con đường vượt bộc lưu,
Thấy sự thật, không nao,
Giải thoát khỏi cái chết,
Như Pháp ngài thuyết giảng.
Oghassa nittharaṇatthaṁ,
Anekavihitaṁ maggaṁ akkhāsi;
Tasmiñce amate akkhāte,
Dhammaddasā ṭhitā asaṁhīrā.

Bậc tạo dựng quang minh,
Thâm nhập vào các Pháp,
Ngài nhìn thấy tất cả,
Vượt qua mọi kiến xứ,
Ngài tự thấy, tự biết,
Thuyết cho năm vị đầu.
Pajjotakaro ativijjha,
Sabbaṭṭhitīnaṁ atikkamamaddasa;
Ñatvā ca sacchikatvā ca,
Aggaṁ so desayi dasaddhānaṁ.

Khi Pháp được khéo thuyết,
Những ai thấy được Pháp,
Không thể nào phóng dật,
Nên tinh tấn, siêng tu,
Tôn kính lời Phật dạy”.
Evaṁ sudesite dhamme,
Ko pamādo vijānataṁ dhammaṁ;
Tasmā hi tassa bhagavato sāsane,
Appamatto sadā namassamanusikkhe”ti.