Tương Ưng Bộ 9.10
Saṁyutta Nikāya 9.10
1. Phẩm Rừng
1. Vanavagga
Tụng Đọc
Sajjhāyasutta
Một thời, một Tỷ-kheo sống giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
Ekaṁ samayaṁ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṁ vanasaṇḍe.
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy trước kia siêng năng tụng kinh rất nhiều, sau một thời gian, trở thành thụ động, im lặng, an phận.
Tena kho pana samayena so bhikkhu yaṁ sudaṁ pubbe ativelaṁ sajjhāyabahulo viharati so aparena samayena appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyati.
Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy không được nghe pháp từ Tỷ-kheo ấy, liền đi đến vị ấy. Sau khi đến, vị Thiên ấy nói lên những bài kệ cho Tỷ-kheo ấy:
Atha kho yā tasmiṁ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno dhammaṁ asuṇantī yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṁ bhikkhuṁ gāthāya ajjhabhāsi:
“Tại sao, này Tỷ-kheo,
Sống chung các Tỷ-kheo,
Không tụng đọc kinh điển,
Khi ông nghe Chánh Pháp,
Lòng tin được tăng trưởng,
Ngày trong đời hiện tại,
Người tụng được tán thán”.
“Kasmā tuvaṁ dhammapadāni bhikkhu,
Nādhīyasi bhikkhuhi saṁvasanto;
Sutvāna dhammaṁ labhatippasādaṁ,
Diṭṭheva dhamme labhatippasaṁsan”ti.
(Vị Tỷ-kheo):
“Trước kia đối Pháp cú,
Khi chưa chứng ly dục
Ta tha thiết tìm hiểu,
Từ khi chứng ly dục,
Liễu tri, hiền trí diệt,
Cái thấy, nghe và biết”.
“Ahu pure dhammapadesu chando,
Yāva virāgena samāgamimha;
Yato virāgena samāgamimha,
Yaṁ kiñci diṭṭhaṁva sutaṁ mutaṁ vā;
Aññāya nikkhepanamāhu santo”ti.