Tương Ưng Bộ 9.13
Saṁyutta Nikāya 9.13
1. Phẩm Rừng
1. Vanavagga
Không Chế Ngự Các Căn
Pākatindriyasutta
Một thời, rất nhiều Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng nọ, cống cao, ngạo mạn, ồn ào, lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự.
Ekaṁ samayaṁ sambahulā bhikkhū kosalesu viharanti aññatarasmiṁ vanasaṇḍe uddhatā unnaḷā capalā mukharā vikiṇṇavācā muṭṭhassatino asampajānā asamāhitā vibbhantacittā pākatindriyā.
Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, vì lòng thương xót các Tỷ-kheo, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến các Tỷ-kheo. Sau khi đến, vị Thiên ấy nói lên những bài kệ với các Tỷ-kheo:
Atha kho yā tasmiṁ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tesaṁ bhikkhūnaṁ anukampikā atthakāmā te bhikkhū saṁvejetukāmā yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te bhikkhū gāthāhi ajjhabhāsi:
“Tỷ-kheo sống an lạc,
Đệ tử Gotama,
Đi khất thực, vô tham,
Không mong cầu chỗ trú,
Biết đời là vô thường,
Bậc đoạn trừ khổ đau.
“Sukhajīvino pure āsuṁ,
bhikkhū gotamasāvakā;
Anicchā piṇḍamesanā,
anicchā sayanāsanaṁ;
Loke aniccataṁ ñatvā,
dukkhassantaṁ akaṁsu te.
Giờ tự làm cho mình,
Trở nên khó hộ độ,
Giống như vị trưởng làng,
Hết ăn rồi lại nằm,
Bất tỉnh trong nhà người.
Dupposaṁ katvā attānaṁ,
gāme gāmaṇikā viya;
Bhutvā bhutvā nipajjanti,
parāgāresu mucchitā.
Đảnh lễ Chúng Tỷ-kheo,
Một số vị tôi nói,
Là những kẻ vất vưởng,
Không có ai hộ trì,
Giống như loài ngạ quỷ.
Saṅghassa añjaliṁ katvā,
idhekacce vadāmahaṁ;
Apaviddhā anāthā te,
yathā petā tatheva te.
Tôi đang nói những ai,
Sống đời sống phóng dật,
Với ai không phóng dật,
Tôi đảnh lễ vị ấy”.
Ye kho pamattā viharanti,
te me sandhāya bhāsitaṁ;
Ye appamattā viharanti,
namo tesaṁ karomahan”ti.
Các Tỷ-kheo ấy, được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
Atha kho te bhikkhū tāya devatāya saṁvejitā saṁvegamāpādunti.