WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 9.14 Kẻ Trộm Mùi Thơm

Tương Ưng Bộ 9.14
Saṁyutta Nikāya 9.14

1. Phẩm Rừng
1. Vanavagga

Kẻ Trộm Mùi Thơm
Gandhatthenasutta

Một thời, một Tỷ-kheo trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
Ekaṁ samayaṁ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṁ vanasaṇḍe.

Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, đi xuống hồ nước và ngửi bông sen hồng.
Tena kho pana samayena so bhikkhu pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto pokkharaṇiṁ ogāhetvā padumaṁ upasiṅghati.

Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo. Sau khi đến, vị Thiên ấy liền nói lên những bài kệ với Tỷ-kheo:
Atha kho yā tasmiṁ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṁ bhikkhuṁ saṁvejetukāmā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṁ bhikkhuṁ gāthāya ajjhabhāsi:

“Hoa này từ nước sanh,
Không cho, Ông ngửi trộm.
Như vậy một loại trộm,
Ta gọi Ông trộm hương”.
“Yametaṁ vārijaṁ pupphaṁ,
adinnaṁ upasiṅghasi;
Ekaṅgametaṁ theyyānaṁ,
gandhatthenosi mārisā”ti.

(Vị Tỷ-kheo):

“Ta không lấy, không bẻ,
Ðứng xa, ta ngửi hoa,
Vậy dựa vào điều chi,
Gọi tôi kẻ trộm hương?
“Na harāmi na bhañjāmi,
ārā siṅghāmi vārijaṁ;
Atha kena nu vaṇṇena,
gandhatthenoti vuccati.

Ai đào rễ củ sen,
Ăn dùng các loại sen,
Do các hành động ấy,
Sao không gọi trộm hương?”
Yvāyaṁ bhisāni khanati,
puṇḍarīkāni bhañjati;
Evaṁ ākiṇṇakammanto,
kasmā eso na vuccatī”ti.

(Vị Thiên):

“Ta có gì để nói,
Kẻ phá hoại, thô lỗ,
Dơ như tã đã dùng,
Lời ấy dành cho ông.
“Ākiṇṇaluddo puriso,
dhāticelaṁva makkhito;
Tasmiṁ me vacanaṁ natthi,
tvañcārahāmi vattave.

Với vị không cấu uế,
Luôn tầm cầu thanh tịnh,
Dẫu lỗi như sợi tóc,
Xem là đám mây to”.
Anaṅgaṇassa posassa,
niccaṁ sucigavesino;
Vālaggamattaṁ pāpassa,
abbhāmattaṁva khāyatī”ti.

(Vị Tỷ-kheo):

“Thật sự này Dạ-xoa,
Ông biết ta, thương ta,
Hãy nói lại với ta,
Khi thấy ta như vậy”.
“Addhā maṁ yakkha jānāsi,
atho me anukampasi;
Punapi yakkha vajjāsi,
yadā passasi edisan”ti.

(Vị Thiên):

“Ta không phụ thuộc Ông,
Không phải người hầu cận,
Tỷ-kheo, ông phải biết,
Con đường tới nhàn cảnh”.
“Neva taṁ upajīvāma,
napi te bhatakāmhase;
Tvameva bhikkhu jāneyya,
yena gaccheyya suggatin”ti.

Vị Tỷ-kheo ấy được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
Atha kho so bhikkhu tāya devatāya saṁvejito saṁvegamāpādīti.

Vanavaggo paṭhamo.

Tassuddānaṁ

Vivekaṁ upaṭṭhānañca,
Kassapagottena sambahulā;
Ānando anuruddho ca,
Nāgadattañca kulagharaṇī.

Vajjiputto ca vesālī,
Sajjhāyena ayoniso;
Majjhanhikālamhi pākatindriya—
Padumapupphena cuddasa bhaveti.

Dứt Tương Ưng Rừng.
Vanasaṁyuttaṁ samattaṁ.