WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 35.245 Thí Dụ Cây Giềng Giềng

Kinh Tương Ưng 35.245
Saṁyutta Nikāya 35.245

19. Phẩm Rắn Độc
19. Āsīvisavagga

Thí Dụ Cây Giềng Giềng
Kiṁsukopamasutta

Rồi một Tỷ-kheo đi đến một Tỷ-kheo khác, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo ấy:
Atha kho aññataro bhikkhu yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṁ bhikkhuṁ etadavoca:

“Cho đến như thế nào, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
“kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī”ti?

“Này Hiền giả, Tỷ-kheo khi nào như thật rõ biết sự tập khởi và sự đoạn diệt của sáu xúc xứ; cho đến như vậy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh”.
“Yato kho, āvuso, bhikkhu channaṁ phassāyatanānaṁ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṁ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī”ti.

Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với câu trả lời câu hỏi của Tỷ-kheo kia, liền đi đến một Tỷ-kheo khác và nói:
Atha kho so bhikkhu asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṁ bhikkhuṁ etadavoca:

“Này Hiền giả, cho đến như thế nào, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
“kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī”ti?

“Này Hiền giả, khi nào Tỷ-kheo như thật rõ biết sự tập khởi và sự đoạn diệt của năm thủ uẩn; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh”.
“Yato kho, āvuso, bhikkhu pañcannaṁ upādānakkhandhānaṁ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṁ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī”ti.

Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với câu trả lời của Tỷ-kheo kia, liền đi đến một Tỷ-kheo khác nữa và nói:
Atha kho so bhikkhu asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṁ bhikkhuṁ etadavoca:

“Này Hiền giả, cho đến như thế nào, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
“kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī”ti?

“Này Hiền giả, khi nào Tỷ-kheo như thật tuệ tri sự tập khởi và sự chấm dứt của bốn đại chủng; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh”.
“Yato kho, āvuso, bhikkhu catunnaṁ mahābhūtānaṁ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṁ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī”ti.

Rồi Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với câu trả lời của Tỷ-kheo kia, liền đi đến một Tỷ-kheo khác nữa và nói:
Atha kho so bhikkhu asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṁ bhikkhuṁ etadavoca:

“Này Hiền giả, cho đến như thế nào, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
“kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī”ti?

“Này Hiền giả, khi nào Tỷ-kheo như thật rõ biết rằng, phàm pháp gì được khởi lên, tất cả pháp ấy đều phải đoạn diệt; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh”.
“Yato kho, āvuso, bhikkhu yaṁ kiñci samudayadhammaṁ, sabbaṁ taṁ nirodhadhammanti yathābhūtaṁ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī”ti.

Rồi Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với câu trả lời câu hỏi của Tỷ-kheo kia, liền đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho so bhikkhu asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ etadavoca:

“Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi đến một Tỷ-kheo và nói với Tỷ-kheo ấy:
“idhāhaṁ, bhante, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkamiṁ; upasaṅkamitvā taṁ bhikkhuṁ etadavocaṁ:

‘Cho đến như thế nào, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?’
‘kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī’ti?

Khi được nói vậy, Tỷ-kheo ấy nói với con:
Evaṁ vutte, bhante, so bhikkhu maṁ etadavoca:

‘Khi nào như thật tuệ tri sự tập khởi và sự chấm dứt của sáu xúc xứ; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh’.
‘yato kho, āvuso, bhikkhu channaṁ phassāyatanānaṁ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṁ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī’ti.

Bạch Thế Tôn, con không thỏa mãn câu trả lời của Tỷ-kheo kia nên đi đến một Tỷ-kheo khác; sau khi đến, con nói với Tỷ-kheo ấy:
Atha khvāhaṁ, bhante, asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro bhikkhu tenupasaṅkamiṁ; upasaṅkamitvā taṁ bhikkhuṁ etadavocaṁ:

‘Cho đến như thế nào, này Hiền giả, sự thấy của một Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?’
‘kittāvatā nu kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī’ti?

Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy nói với con:
Evaṁ vutte, bhante, so bhikkhu maṁ etadavoca:

‘Khi nào, này Hiền giả, Tỷ-kheo như thật tuệ tri sự tập khởi và sự chấm dứt của năm thủ uẩn
‘yato kho, āvuso, bhikkhu pañcannaṁ upādānakkhandhānaṁ …pe…

như thật tuệ tri sự tập khởi và sự chấm dứt của bốn đại chủng …
catunnaṁ mahābhūtānaṁ samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṁ pajānāti …pe…

như thật tuệ tri rằng, phàm có pháp gì được tập khởi, tất cả pháp ấy bị đoạn diệt, cho đến như vậy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh’.
yaṁ kiñci samudayadhammaṁ sabbaṁ taṁ nirodhadhammanti yathābhūtaṁ pajānāti, ettāvatā kho, āvuso, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī’ti.

Bạch Thế Tôn, con không thỏa mãn câu trả lời câu hỏi của Tỷ-kheo kia nên con đi đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
Atha khvāhaṁ, bhante, asantuṭṭho tassa bhikkhussa pañhaveyyākaraṇena yena bhagavā tenupasaṅkamiṁ (…).

Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?”
Kittāvatā nu kho, bhante, bhikkhuno dassanaṁ suvisuddhaṁ hotī”ti?

“Ví như, này Tỷ-kheo, một người chưa từng thấy cây Giềng Giềng, người ấy đi đến một người khác đã thấy cây Giềng Giềng và nói: ‘Này Bạn, cây Giềng Giềng là thế nào?’.
“Seyyathāpi, bhikkhu, purisassa kiṁsuko adiṭṭhapubbo assa. So yenaññataro puriso kiṁsukassa dassāvī tenupasaṅkameyya. Upasaṅkamitvā taṁ purisaṁ evaṁ vadeyya: ‘kīdiso, bho purisa, kiṁsuko’ti?

Người ấy đáp như sau: ‘Này Bạn, cây Giềng Giềng màu đen, như một khúc cây bị cháy’.
So evaṁ vadeyya: ‘kāḷako kho, ambho purisa, kiṁsuko—seyyathāpi jhāmakhāṇū’ti.

Như vậy, này Tỷ-kheo, trong thời gian ấy, cây Giềng Giềng đối với người ấy là giống như người kia đã thấy.
Tena kho pana, bhikkhu, samayena tādisovassa kiṁsuko yathāpi tassa purisassa dassanaṁ.

Rồi, này Tỷ-kheo, người ấy không thỏa mãn với câu trả lời của người kia, liền đi đến một người khác đã thấy cây Giềng Giềng, sau khi đến, hỏi người ấy: ‘Này Bạn, cây Giềng Giềng là thế nào?’
Atha kho so, bhikkhu, puriso asantuṭṭho tassa purisassa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro puriso kiṁsukassa dassāvī tenupasaṅkameyya; upasaṅkamitvā taṁ purisaṁ evaṁ vadeyya: ‘kīdiso, bho purisa, kiṁsuko’ti?

Người kia trả lời: ‘Này Bạn, cây Giềng Giềng màu đỏ, giống như một đống thịt’.
So evaṁ vadeyya: ‘lohitako kho, ambho purisa, kiṁsuko—seyyathāpi maṁsapesī’ti.

Và này Tỷ-kheo, như vậy trong thời gian ấy, cây Giềng Giềng đối với người ấy là giống như người kia đã thấy.
Tena kho pana, bhikkhu, samayena tādisovassa kiṁsuko yathāpi tassa purisassa dassanaṁ.

Rồi, này Tỷ-kheo, người ấy không thỏa mãn với câu trả lời của người kia, đi đến một người khác đã thấy cây Giềng Giềng, sau khi đến nói với người ấy: ‘Này Bạn, cây Giềng Giềng là thế nào?’
Atha kho so bhikkhu puriso asantuṭṭho tassa purisassa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro puriso kiṁsukassa dassāvī tenupasaṅkameyya; upasaṅkamitvā taṁ purisaṁ evaṁ vadeyya: ‘kīdiso, bho purisa, kiṁsuko’ti?

Người kia trả lời: ‘Này Bạn, cây Giềng Giềng bị lột vỏ, vỏ bị nứt nẻ ra như cây Bồ Kết’.
So evaṁ vadeyya: ‘ocīrakajāto kho, ambho purisa, kiṁsuko ādinnasipāṭiko—seyyathāpi sirīso’ti.

Này Tỷ-kheo, trong thời gian ấy, cây Giềng Giềng đối với người ấy là giống như người kia đã thấy.
Tena kho pana, bhikkhu, samayena tādisovassa kiṁsuko, yathāpi tassa purisassa dassanaṁ.

Rồi, này Tỷ-kheo, người ấy không thỏa mãn với câu trả lời của người kia, liền đi đến một người khác đã thấy cây Giềng Giềng, sau khi đến, nói với người ấy: ‘Này Bạn, cây Giềng Giềng là thế nào?’
Atha kho so bhikkhu puriso asantuṭṭho tassa purisassa pañhaveyyākaraṇena, yenaññataro puriso kiṁsukassa dassāvī tenupasaṅkameyya; upasaṅkamitvā taṁ purisaṁ evaṁ vadeyya: ‘kīdiso, bho purisa, kiṁsuko’ti?

Người kia nói như sau: ‘Này Bạn, cây Giềng Giềng có lá rậm rạp, bóng của nó dày và rậm, như cây bàng’.
So evaṁ vadeyya: ‘bahalapattapalāso sandacchāyo kho, ambho purisa, kiṁsuko—seyyathāpi nigrodho’ti.

Như vậy, này Tỷ-kheo, trong thời gian ấy, cây Giềng Giềng đối với người ấy là giống như người kia đã thấy.
Tena kho pana, bhikkhu, samayena tādisovassa kiṁsuko, yathāpi tassa purisassa dassanaṁ.

Cũng vậy, này Tỷ-kheo, tùy theo sự thấy của Chân nhân ấy khéo thanh tịnh, tùy thuộc theo đấy, họ đã trả lời.
Evameva kho, bhikkhu, yathā yathā adhimuttānaṁ tesaṁ sappurisānaṁ dassanaṁ suvisuddhaṁ hoti tathā tathā kho tehi sappurisehi byākataṁ.

Ví như, này Tỷ-kheo, có ngôi thành của vua ở biên giới được xây dựng với pháo đài kiên cố, với tường và tháp canh kiên cố và có đến sáu cửa thành.
Seyyathāpi, bhikkhu, rañño paccantimaṁ nagaraṁ daḷhuddhāpaṁ daḷhapākāratoraṇaṁ chadvāraṁ.

Tại đấy có người giữ cửa thành, là bậc thông minh, có kinh nghiệm và có trí, ngăn chận những người không quen biết, cho vào những người quen biết.
Tatrassa dovāriko paṇḍito byatto medhāvī, aññātānaṁ nivāretā, ñātānaṁ pavesetā.

Từ phương Ðông, hai người sứ giả cấp tốc đi đến, và nói với người giữ cửa thành: ‘Này Bạn, vị chủ thành trì này ở đâu?’
Puratthimāya disāya āgantvā sīghaṁ dūtayugaṁ taṁ dovārikaṁ evaṁ vadeyya: ‘kahaṁ, bho purisa, imassa nagarassa nagarassāmī’ti?

Người giữa cửa thành ấy nói: ‘Thưa các Tôn giả, vị ấy đang ngồi giữa ngã tư đường’.
So evaṁ vadeyya: ‘eso, bhante, majjhe siṅghāṭake nisinno’ti.

Hai người sứ giả ấy cấp tốc tuyên bố lời như thật ngữ cho vị chủ ngôi thành, rồi tiếp tục đi theo con đường họ đến.
Atha kho taṁ sīghaṁ dūtayugaṁ nagarassāmikassa yathābhūtaṁ vacanaṁ niyyātetvā yathāgatamaggaṁ paṭipajjeyya.

Từ phương Tây, lại hai người sứ giả cấp tốc đi đến …
Pacchimāya disāya āgantvā sīghaṁ dūtayugaṁ …pe…

từ phương Bắc …
uttarāya disāya …

từ phương Nam, lại hai người sứ giả cấp tốc đi đến, và nói với người giữ cửa thành: ‘Này Bạn, vị chủ thành trì này ở đâu?’
dakkhiṇāya disāya āgantvā sīghaṁ dūtayugaṁ taṁ dovārikaṁ evaṁ vadeyya: ‘kahaṁ, bho purisa, imassa nagarassāmī’ti?

Người giữ cửa thành ấy nói: ‘Thưa các Tôn giả, vị ấy đang ngồi giữa ngã tư đường’.
So evaṁ vadeyya: ‘eso, bhante, majjhe siṅghāṭake nisinno’ti.

Rồi hai người sứ giả ấy cấp tốc tuyên bố lời như thật ngữ cho vị chủ ngôi thành, rồi tiếp tục theo con đường họ đến.
Atha kho taṁ sīghaṁ dūtayugaṁ nagarassāmikassa yathābhūtaṁ vacanaṁ niyyātetvā yathāgatamaggaṁ paṭipajjeyya.

Này Tỷ-kheo, Ta nói ví dụ để giải thích ý nghĩa, và đây là ý nghĩa.
Upamā kho myāyaṁ, bhikkhu, katā atthassa viññāpanāya. Ayañcettha attho:

‘Ngôi thành’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân do bốn đại chủng tạo thành này, do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, tiêu mòn, tiêu hao, hủy hoại, hủy diệt.
‘nagaran’ti kho, bhikkhu, imassetaṁ cātumahābhūtikassa kāyassa adhivacanaṁ mātāpettikasambhavassa odanakummāsūpacayassa anicca-ucchādana-parimaddana-bhedana-viddhaṁsana-dhammassa.

‘Sáu cửa’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với sáu nội xứ.
‘Cha dvārā’ti kho, bhikkhu, channetaṁ ajjhattikānaṁ āyatanānaṁ adhivacanaṁ.

‘Người giữ cửa’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với niệm.
‘Dovāriko’ti kho, bhikkhu, satiyā etaṁ adhivacanaṁ.

‘Hai vị sứ giả cấp tốc’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với chỉ và quán.
‘Sīghaṁ dūtayugan’ti kho, bhikkhu, samathavipassanānetaṁ adhivacanaṁ.

‘Người chủ ngôi thành’ là đồng nghĩa với thức.
‘Nagarassāmī’ti kho, bhikkhu, viññāṇassetaṁ adhivacanaṁ.

‘Ở giữa tại ngã tư đường’ là đồng nghĩa với bốn đại chủng: địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới.
‘Majjhe siṅghāṭako’ti kho, bhikkhu, catunnetaṁ mahābhūtānaṁ adhivacanaṁ—pathavīdhātuyā, āpodhātuyā, tejodhātuyā, vāyodhātuyā.

‘Lời như thật ngữ’, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với Niết-bàn.
‘Yathābhūtaṁ vacanan’ti kho, bhikkhu, nibbānassetaṁ adhivacanaṁ.

‘Theo con đường họ đến’ là đồng nghĩa với con đường Thánh đạo Tám ngành. Như chánh tri kiến … chánh định”.
‘Yathāgatamaggo’ti kho, bhikkhu, ariyassetaṁ aṭṭhaṅgikassa maggassa adhivacanaṁ, seyyathidaṁ—sammādiṭṭhiyā …pe… sammāsamādhissā”ti.

Aṭṭhamaṁ.