WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 35.246 Thí Dụ Cây Đàn Veena

Kinh Tương Ưng 35.246
Saṁyutta Nikāya 35.246

19. Phẩm Rắn Độc
19. Āsīvisavagga

Thí Dụ Cây Đàn Veena
Vīṇopamasutta

“Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào đối với các sắc do mắt nhận thức có khởi lên dục, tham, sân, si hay hận tâm; hãy ngăn chận tâm đừng cho khởi lên như vậy.
“Yassa kassaci, bhikkhave, bhikkhussa vā bhikkhuniyā vā cakkhuviññeyyesu rūpesu uppajjeyya chando vā rāgo vā doso vā moho vā paṭighaṁ vāpi cetaso, tato cittaṁ nivāreyya.

‘Con đường này là con đường đầy sợ hãi, đầy kinh khủng, đầy gai góc, đầy rừng rậm, con đường ác, con đường tà, con đường đầy trộm cướp.
Sabhayo ceso maggo sappaṭibhayo ca sakaṇṭako ca sagahano ca ummaggo ca kummaggo ca duhitiko ca.

Con đường này là con đường do phi thiện nhân dùng, không phải con đường do thiện nhân dùng.
Asappurisasevito ceso maggo, na ceso maggo sappurisehi sevito.

Như vậy, với ý nghĩ: Ðây không phải con đường xứng đáng cho ta’.
Na tvaṁ etaṁ arahasīti.

Hãy ngăn chận tâm đừng cho khởi lên như vậy đối với các sắc do mắt nhận thức …
Tato cittaṁ nivāraye cakkhuviññeyyehi rūpehi …pe…

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào đối với các vị do lưỡi nhận thức …
yassa kassaci, bhikkhave, bhikkhussa vā bhikkhuniyā vā jivhāviññeyyesu rasesu …pe…

đối với các pháp do ý nhận thức, có khởi lên dục, tham, sân, si hay hận tâm; hãy ngăn chận tâm đừng cho khởi lên như vậy.
manoviññeyyesu dhammesu uppajjeyya chando vā rāgo vā doso vā moho vā paṭighaṁ vāpi cetaso tato cittaṁ nivāreyya.

‘Con đường này là con đường đầy sợ hãi, đầy kinh khủng, đầy gai góc, đầy rừng rậm, con đường ác, con đường tà, con đường đầy trộm cướp.
Sabhayo ceso maggo sappaṭibhayo ca sakaṇṭako ca sagahano ca ummaggo ca kummaggo ca duhitiko ca.

Con đường này là con đường do phi thiện nhân dùng, không phải con đường do thiện nhân dùng.
Asappurisasevito ceso maggo, na ceso maggo sappurisehi sevito.

Như vậy với ý nghĩ: Ðây không phải con đường xứng đáng cho ta, hãy ngăn chận tâm đừng cho khởi lên như vậy đối với các pháp do ý nhận thức.
Na tvaṁ etaṁ arahasīti. Tato cittaṁ nivāraye manoviññeyyehi dhammehi.

Ví như, này các Tỷ-kheo, lúa mì đã chín và một người giữ lúa mì phóng dật (lơ đãng).
Seyyathāpi, bhikkhave, kiṭṭhaṁ sampannaṁ.

Có con bò ăn lúa mì, xâm phạm lúa mì, xâm phạm lúa mì ấy và mê say ăn một cách thỏa thích.
Kiṭṭhārakkho ca pamatto, goṇo ca kiṭṭhādo aduṁ kiṭṭhaṁ otaritvā yāvadatthaṁ madaṁ āpajjeyya pamādaṁ āpajjeyya;

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không hộ trì đối với sáu xúc xứ, mê say thọ dụng một cách thỏa thích đối với năm dục công đức.
evameva kho, bhikkhave, assutavā puthujjano chasu phassāyatanesu asaṁvutakārī pañcasu kāmaguṇesu yāvadatthaṁ madaṁ āpajjati pamādaṁ āpajjati.

Ví như, này các Tỷ-kheo, lúa mì đã chín và một người giữ lúa mì không phóng dật. Có con bò ăn lúa mì, xâm phạm lúa mì ấy.
Seyyathāpi, bhikkhave, kiṭṭhaṁ sampannaṁ kiṭṭhārakkho ca appamatto goṇo ca kiṭṭhādo aduṁ kiṭṭhaṁ otareyya.

Người giữ lúa mì nắm chắc cái miệng của con bò; sau khi nắm chắc cái miệng, người ấy rị chặt lấy cái bướu.
Tamenaṁ kiṭṭhārakkho nāsāyaṁ suggahitaṁ gaṇheyya. Nāsāyaṁ suggahitaṁ gahetvā uparighaṭāyaṁ suniggahitaṁ niggaṇheyya.

Sau khi rị chặt lấy cái bướu, với cái gậy, người ấy đánh con bò một trận nên thân. Sau khi lấy gậy đánh cho một trận nên thân, người ấy thả con bò đi.
Uparighaṭāyaṁ suniggahitaṁ niggahetvā daṇḍena sutāḷitaṁ tāḷeyya. Daṇḍena sutāḷitaṁ tāḷetvā osajjeyya.

Lần thứ hai, này các Tỷ-kheo …
Dutiyampi kho, bhikkhave …pe…

Lần thứ ba, này các Tỷ-kheo, có con bò ăn lúa mì, xâm phạm lúa mì ấy.
tatiyampi kho, bhikkhave, goṇo kiṭṭhādo aduṁ kiṭṭhaṁ otareyya.

Người giữ lúa mì nắm chặt cái miệng; sau khi nắm chắc cái miệng, người ấy rị chặt lấy cái bướu.
Tamenaṁ kiṭṭhārakkho nāsāyaṁ suggahitaṁ gaṇheyya. Nāsāyaṁ suggahitaṁ gahetvā uparighaṭāyaṁ suniggahitaṁ niggaṇheyya.

Sau khi rị chặt lấy cái bướu, với cái gậy, người ấy đánh con bò một trận nên thân. Sau khi lấy gậy đánh con bò một trận nên thân, người ấy thả con bò đi.
Uparighaṭāyaṁ suniggahitaṁ niggahetvā daṇḍena sutāḷitaṁ tāḷeyya. Daṇḍena sutāḷitaṁ tāḷetvā osajjeyya.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, con bò ăn lúa mì ấy đi vào làng, hay đi vào rừng, hay khi đứng, hay ngồi, nó không xâm phạm lúa mì ấy, vì nó nhớ đến cảm xúc cái gậy lần trước.
Evañhi so, bhikkhave, goṇo kiṭṭhādo gāmagato vā araññagato vā, ṭhānabahulo vā assa nisajjabahulo vā na taṁ kiṭṭhaṁ puna otareyya—tameva purimaṁ daṇḍasamphassaṁ samanussaranto.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo có tâm chơn trực, chánh trực đối với sáu xúc xứ, thời nội tâm được an trú, tịnh chỉ, nhứt tâm, Thiền định.
Evameva kho, bhikkhave, yato kho bhikkhuno chasu phassāyatanesu cittaṁ udujitaṁ hoti sudujitaṁ, ajjhattameva santiṭṭhati, sannisīdati, ekodi hoti, samādhiyati.

Ví như, này các Tỷ-kheo, một vị vua hay đại thần của vua từ trước chưa từng được nghe tiếng đàn Veena, nay được nghe tiếng đàn Veena.
Seyyathāpi, bhikkhave, rañño vā rājamahāmattassa vā vīṇāya saddo assutapubbo assa. So vīṇāsaddaṁ suṇeyya.

Vị ấy nói: ‘Này Bạn, tiếng ấy là tiếng gì, khả ái như vậy, khả lạc như vậy, mê ly như vậy, say đắm như vậy, hấp dẫn như vậy?’
So evaṁ vadeyya: ‘ambho, kassa nu kho eso saddo evaṁrajanīyo evaṅkamanīyo evaṁmadanīyo evaṁmucchanīyo evambandhanīyo’ti?

Họ nói với vị ấy: ‘Thưa Tôn giả, đây là đàn Veena, với tiếng khả ái như vậy, mê ly như vậy, khả lạc như vậy, say đắm như vậy, hấp dẫn như vậy’.
Tamenaṁ evaṁ vadeyyuṁ: ‘esā, kho, bhante, vīṇā nāma, yassā eso saddo evaṁrajanīyo evaṅkamanīyo evaṁmadanīyo evaṁmucchanīyo evambandhanīyo’ti.

Vị ấy bèn nói: ‘Hãy đem tiếng lại cho ta’.
So evaṁ vadeyya: ‘gacchatha me, bho, taṁ vīṇaṁ āharathā’ti.

Họ đem đàn Veena về cho vị ấy, và nói như sau: ‘Thưa Tôn giả, đàn Veena này với tiếng khả ái như vậy, khả lạc như vậy, mê ly như vậy, say đắm như vậy, hấp dẫn như vậy’.
Tassa taṁ vīṇaṁ āhareyyuṁ. Tamenaṁ evaṁ vadeyyuṁ: ‘ayaṁ kho sā, bhante, vīṇā yassā eso saddo evaṁrajanīyo evaṅkamanīyo evaṁmadanīyo evaṁmucchanīyo evambandhanīyo’ti.

Vị ấy bèn nói: ‘Thôi vừa rồi đối với ta về đàn Veena này. Hãy đem tiếng lại cho ta’.
So evaṁ vadeyya: ‘alaṁ me, bho, tāya vīṇāya, tameva me saddaṁ āharathā’ti.

Họ thưa với vị ấy:
Tamenaṁ evaṁ vadeyyuṁ:

‘Thưa Tôn giả, cái này được gọi là đàn Veena, gồm có nhiều thành phần, gồm có số lớn thành phần. Nhờ nhiều thành phần này nên đàn phát âm.
‘ayaṁ kho, bhante, vīṇā nāma anekasambhārā mahāsambhārā. Anekehi sambhārehi samāraddhā vadati, seyyathidaṁ—

Như duyên cái bầu, duyên cái da, duyên cái cán, duyên cái đầu, duyên cái dây, duyên cái cung, duyên nỗ lực thích nghi của người. Như vậy, thưa Tôn giả, cái này gọi là đàn Veena, gồm có nhiều thành phần, gồm có số lớn thành phần.
doṇiñca paṭicca cammañca paṭicca daṇḍañca paṭicca upadhāraṇe ca paṭicca tantiyo ca paṭicca koṇañca paṭicca purisassa ca tajjaṁ vāyāmaṁ paṭicca evāyaṁ, bhante, vīṇā nāma anekasambhārā mahāsambhārā.

Nhờ gồm nhiều thành phần này nên đàn phát âm’.
Anekehi sambhārehi samāraddhā vadatī’ti.

Rồi vua ấy đập đàn Veena ấy ra thành 10 mảnh, 100 mảnh; sau khi đập bể đàn Veena ấy ra thành 10 mảnh, 100 mảnh, vị ấy chẻ thành từng miếng nhỏ; sau khi chẻ thành từng miếng nhỏ, vị ấy lấy lửa đốt; sau khi lấy lửa đốt, vị ấy vun lại thành đống tro; sau khi vun lại thành đống tro, vị ấy đem quạt đống tro lớn ấy trước làn gió mạnh, hay để chúng trôi theo dòng nước sông chảy mạnh.
So taṁ vīṇaṁ dasadhā vā satadhā vā phāleyya, dasadhā vā satadhā vā taṁ phāletvā sakalikaṁ sakalikaṁ kareyya. Sakalikaṁ sakalikaṁ karitvā agginā ḍaheyya, agginā ḍahitvā masiṁ kareyya. Masiṁ karitvā mahāvāte vā ophuneyya, nadiyā vā sīghasotāya pavāheyya.

Rồi vị ấy nói: ‘Thật là hạ liệt, cái gọi đàn Veena này, dầu cho tỳ bà là cái gì. Ở đây, đại chúng thường phóng dật, bị hướng dẫn sai lạc’.
So evaṁ vadeyya: ‘asatī kirāyaṁ, bho, vīṇā nāma, yathevaṁ yaṁ kiñci vīṇā nāma ettha ca panāyaṁ jano ativelaṁ pamatto palaḷito’ti.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát sắc cho đến sở thú của sắc, quán sát thọ cho đến sở thú của thọ, quán sát tưởng cho đến sở thú của tưởng, quán sát hành cho đến sở thú của hành, quán sát thức cho đến sở thú của thức.
Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu rūpaṁ samanvesati yāvatā rūpassa gati, vedanaṁ samanvesati yāvatā vedanāya gati, saññaṁ samanvesati yāvatā saññāya gati, saṅkhāre samanvesati yāvatā saṅkhārānaṁ gati, viññāṇaṁ samanvesati yāvatā viññāṇassa gati.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát sắc cho đến sở thú của sắc, quán sát thọ …
Tassa rūpaṁ samanvesato yāvatā rūpassa gati, vedanaṁ samanvesato …pe…

quán sát tưởng …
saññaṁ …

quán sát các hành …
saṅkhāre …

quán sát thức cho đến sở thú của thức.
viññāṇaṁ samanvesato yāvatā viññāṇassa gati.

Trong tất cả quán sát này, không có cái gì là ‘Tôi’, là ‘Của tôi’, là ‘Tôi là’ cả”.
Yampissa taṁ hoti ahanti vā mamanti vā asmīti vā tampi tassa na hotī”ti.

Navamaṁ.