Kinh Tương Ưng 36.21
Saṁyutta Nikāya 36.21
3. Phẩm Một Trăm Lẻ Tám Pháp Môn
3. Aṭṭhasatapariyāyavagga
Sīvaka
Sīvakasutta
Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá) tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.
Rồi du sĩ Moḷiyasīvaka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, du sĩ Moḷiyasīvaka thưa với Thế Tôn:
Atha kho moḷiyasīvako paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho moḷiyasīvako paribbājako bhagavantaṁ etadavoca:
“Thưa Tôn giả Gotama, có một số Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, thấy như sau:
“santi, bho gotama, eke samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:
‘Con người cảm thọ cảm giác gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; tất cả thọ ấy đều do nhân đã làm trong quá khứ’.
‘yaṁ kiñcāyaṁ purisapuggalo paṭisaṁvedeti sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā sabbaṁ taṁ pubbekatahetū’ti.
Ở đây, Tôn giả Gotama nói như thế nào?”
Idha bhavaṁ gotamo kimāhā”ti?
“Này Sīvaka, ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ mật.
“Pittasamuṭṭhānānipi kho, sīvaka, idhekaccāni vedayitāni uppajjanti.
Này Sīvaka, hoặc là Ông phải tự mình biết rằng: ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ mật.
Sāmampi kho etaṁ, sīvaka, veditabbaṁ yathā pittasamuṭṭhānānipi idhekaccāni vedayitāni uppajjanti.
Hay là, này Sīvaka, thế giới chấp nhận là đúng sự thật rằng: ở đây, một số cảm thọ khởi lên phát sanh từ mật.
Lokassapi kho etaṁ, sīvaka, saccasammataṁ yathā pittasamuṭṭhānānipi idhekaccāni vedayitāni uppajjanti.
Ở đây, này Sīvaka, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào thuyết như sau, thấy như sau:
Tatra, sīvaka, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:
‘Con người cảm thọ cảm giác gì, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ; tất cả thọ đều do nhân đã làm trong quá khứ’;
‘yaṁ kiñcāyaṁ purisapuggalo paṭisaṁvedeti sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā sabbaṁ taṁ pubbekatahetū’ti.
nếu do họ tự mình biết, họ thật sự đi quá xa; nếu được thế giới chấp nhận là đúng sự thật, họ cũng đi quá xa.
Yañca sāmaṁ ñātaṁ tañca atidhāvanti, yañca loke saccasammataṁ tañca atidhāvanti.
Do vậy, Ta tuyên bố rằng các Sa-môn, Bà-la-môn ấy thuộc về tà.
Tasmā tesaṁ samaṇabrāhmaṇānaṁ micchāti vadāmi.
Này Sīvaka, ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ đàm (niêm dịch) …
Semhasamuṭṭhānānipi kho, sīvaka …pe…
Này Sīvaka, ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ gió …
vātasamuṭṭhānānipi kho, sīvaka …pe…
Này Sīvaka, ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh do các dịch (nước) thể … (*)
sannipātikānipi kho, sīvaka …pe…
Này Sīvaka, ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ sự thay đổi thời tiết … (*)
utupariṇāmajānipi kho, sīvaka …pe…
Này Sīvaka, ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ sự không chăm sóc bản thân … (*)
visamaparihārajānipi kho, sīvaka …pe…
Này Sīvaka, ở đây, một số cảm thọ khởi lên, phát sanh từ các công kích bên trong hay bên ngoài … (*)
opakkamikānipi kho, sīvaka …pe…
Do quả dị thục của nghiệp, này Sīvaka, ở đây, một số cảm thọ được khởi lên.
kammavipākajānipi kho, sīvaka, idhekaccāni vedayitāni uppajjanti.
Này Sīvaka, hoặc là Ông phải tự mình biết rằng: ở đây, một số cảm thọ khởi lên vì kết quả dị thục của nghiệp.
Sāmampi kho etaṁ, sīvaka, veditabbaṁ. Yathā kammavipākajānipi idhekaccāni vedayitāni uppajjanti;
Hay là, này Sīvaka, thế giới chấp nhận là đúng sự thật rằng: ở đây, một số cảm thọ khởi lên vì kết quả dị thục của nghiệp.
lokassapi kho etaṁ, sīvaka, saccasammataṁ. Yathā kammavipākajānipi idhekaccāni vedayitāni uppajjanti;
Ở đây, này Sīvaka, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào thuyết như sau, thấy như sau:
tatra, sīvaka, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:
‘Con người cảm thọ cảm giác gì, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ; tất cả thọ đều do nhân đã làm trong quá khứ’;
‘yaṁ kiñcāyaṁ purisapuggalo paṭisaṁvedeti sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā sabbaṁ taṁ pubbekatahetū’ti.
nếu do họ tự mình biết, họ thật sự đi quá xa; nếu được thế giới chấp nhận là đúng sự thật, họ cũng đi quá xa.
Yañca sāmaṁ ñātaṁ tañca atidhāvanti yañca loke saccasammataṁ tañca atidhāvanti.
Do vậy, Ta tuyên bố rằng ‘các Sa-môn, Bà-la-môn ấy thuộc về tà’.”
Tasmā ‘tesaṁ samaṇabrāhmaṇānaṁ micchā’ti vadāmī”ti.
Khi được nói vậy, du sĩ Moḷiyasīvaka bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, moḷiyasīvako paribbājako bhagavantaṁ etadavoca:
“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn … từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!”
“abhikkantaṁ, bho gotama, abhikkantaṁ, bho gotama …pe… upāsakaṁ maṁ bhavaṁ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gatan”ti.
“Mật, niêm dịch và gió,
Dịch thể cùng tụ hội,
Thời tiết không cân bằng,
Không chăm sóc bản thân,
Bị công kích trong, ngoài,
Thứ tám là nghiệp quả”.
“Pittaṁ semhañca vāto ca,
Sannipātā utūni ca;
Visamaṁ opakkamikaṁ,
Kammavipākena aṭṭhamī”ti.
Paṭhamaṁ.