WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 41.3 Isidatta (2)

Kinh Tương Ưng 41.3
Saṁyutta Nikāya 41.3

1. Phẩm Citta
1. Cittavagga

Isidatta (2)
Dutiyaisidattasutta

Một thời, một số đông Tỷ-kheo trưởng lão trú ở Macchikāsaṇḍa, tại rừng Xoài.
Ekaṁ samayaṁ sambahulā therā bhikkhū macchikāsaṇḍe viharanti ambāṭakavane.

Rồi gia chủ Citta đi đến các Tỷ-kheo trưởng lão; sau khi đến, đảnh lễ các Tỷ-kheo trưởng lão rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati yena therā bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā there bhikkhū abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi một bên, gia chủ Citta thưa với các Tỷ-kheo trưởng lão:
Ekamantaṁ nisinno kho citto gahapati there bhikkhū etadavoca:

“Thưa chư Tôn giả, mong rằng chư vị Trưởng lão ngày mai nhận lời mời dùng bữa ăn của con”.
“adhivāsentu me, bhante therā, svātanāya bhattan”ti.

Các Tỷ-kheo trưởng lão im lặng nhận lời.
Adhivāsesuṁ kho therā bhikkhū tuṇhībhāvena.

Rồi gia chủ Citta, sau khi biết các Tỷ-kheo trưởng lão đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ các Tỷ-kheo trưởng lão, thân phía hữu hướng về các vị ấy rồi ra đi.
Atha kho citto gahapati therānaṁ bhikkhūnaṁ adhivāsanaṁ viditvā uṭṭhāyāsanā there bhikkhū abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkāmi.

Các Tỷ-kheo trưởng lão ấy, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của gia chủ Citta; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho therā bhikkhū tassā rattiyā accayena pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena cittassa gahapatissa nivesanaṁ tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdiṁsu.

Rồi gia chủ Citta đi đến Tỷ-kheo trưởng lão; sau khi đến, đảnh lễ các Tỷ-kheo trưởng lão rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati yena therā bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā there bhikkhū abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi một bên, gia chủ Citta bạch Tôn giả Thera:
Ekamantaṁ nisinno kho citto gahapati āyasmantaṁ theraṁ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Thera, có một số (tà) kiến này khởi lên ở đời:
“yā imā, bhante thera, anekavihitā diṭṭhiyo loke uppajjanti:

‘Thế giới là thường còn, hay thế giới là không thường còn? Thế giới là hữu biên, hay thế giới là vô biên? Sinh mạng và thân thể là một, hay sinh mạng và thân thể là khác? Như Lai có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không tồn tại sau khi chết? Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?’.
‘sassato lokoti vā, asassato lokoti vā, antavā lokoti vā, anantavā lokoti vā, taṁ jīvaṁ taṁ sarīranti vā, aññaṁ jīvaṁ aññaṁ sarīranti vā, hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, na hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā.

Lại có thêm 62 tà kiến này được nói lên trong kinh Phạm Võng. Thưa Tôn giả, các tà kiến này do cái gì có mặt, chúng có mặt? Do cái gì không có mặt, chúng không có mặt?”
Yāni cimāni dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni brahmajāle bhaṇitāni; imā nu kho, bhante, diṭṭhiyo kismiṁ sati honti, kismiṁ asati na hontī”ti?

Khi được nói vậy, Tôn giả Thera im lặng.
Evaṁ vutte, āyasmā thero tuṇhī ahosi.

Lần thứ hai, gia chủ Citta …
Dutiyampi kho citto gahapati …pe…

Lần thứ ba, gia chủ Citta bạch Tôn giả Thera:
tatiyampi kho citto gahapati āyasmantaṁ theraṁ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Thera, có một số (tà) kiến này khởi lên ở đời:
“yā imā, bhante thera, anekavihitā diṭṭhiyo loke uppajjanti—

Thế giới là thường còn, hay thế giới là vô thường? Thế giới là hữu biên, hay thế giới là vô biên? Sinh mạng và thân thể là một, hay sinh mạng và thân thể là khác? Như Lai có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không tồn tại sau khi chết? Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
sassato lokoti vā, asassato lokoti vā, antavā lokoti vā, anantavā lokoti vā, taṁ jīvaṁ taṁ sarīranti vā, aññaṁ jīvaṁ aññaṁ sarīranti vā, hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, na hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā.

Lại có thêm 62 tà kiến này được nói lên trong kinh Phạm Võng. Thưa Tôn giả, các tà kiến này do cái gì có mặt, chúng có mặt? Do cái gì không có mặt, chúng không có mặt?”
Yāni cimāni dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni brahmajāle bhaṇitāni; imā nu kho, bhante, diṭṭhiyo kismiṁ sati honti, kismiṁ asati na hontī”ti?

Lần thứ ba, Tôn giả Thera giữ im lặng.
Tatiyampi kho āyasmā thero tuṇhī ahosi.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Isidatta là Tỷ-kheo mới tu nhất trong chúng Tỷ-kheo ấy.
Tena kho pana samayena āyasmā isidatto tasmiṁ bhikkhusaṅghe sabbanavako hoti.

Rồi Tôn giả Isidatta thưa với Tôn giả Thera:
Atha kho āyasmā isidatto āyasmantaṁ theraṁ etadavoca:

“Thưa Tôn giả, con xin trả lời câu hỏi ấy của gia chủ Citta”.
“byākaromahaṁ, bhante thera, cittassa gahapatino etaṁ pañhan”ti?

“Này Isidatta, hãy trả lời câu hỏi ấy của gia chủ Citta”.
“Byākarohi tvaṁ, āvuso isidatta, cittassa gahapatino etaṁ pañhan”ti.

“Này Gia chủ, có phải Ông hỏi như sau:
“Evañhi tvaṁ, gahapati, pucchasi:

‘Thưa Tôn giả Thera, có một số (tà) kiến này khởi lên ở đời: Thế giới là thường còn … ; Thưa Tôn giả, các tà kiến này do cái gì có mặt, chúng có mặt? Do cái gì không có mặt, chúng không có mặt chăng’?”
‘yā imā, bhante thera, anekavihitā diṭṭhiyo loke uppajjanti— sassato lokoti vā …pe…; imā nu kho, bhante, diṭṭhiyo kismiṁ sati honti, kismiṁ asati na hontī’”ti?

“Thưa vâng, Thưa Tôn giả”.
“Evaṁ, bhante”.

“Này Gia chủ, một số (tà) kiến này khởi lên ở đời:
“Yā imā, gahapati, anekavihitā diṭṭhiyo loke uppajjanti:

‘Thế giới là thường còn, hay thế giới là vô thường? Thế giới là hữu biên, hay thế giới là vô biên? Sinh mạng và thân thể là một, hay sinh mạng và thân thể là khác? Như Lai có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không tồn tại sau khi chết? Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? Lại có thêm 62 tà kiến này được nói lên trong kinh Phạm Võng.
‘sassato lokoti vā, asassato lokoti vā, antavā lokoti vā anantavā lokoti vā, taṁ jīvaṁ taṁ sarīranti vā, aññaṁ jīvaṁ aññaṁ sarīranti vā, hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, na hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā. Yāni cimāni dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni brahmajāle bhaṇitāni;

Này Gia chủ, do thân kiến có mặt, nên các tà kiến này có mặt. Do thân kiến không có mặt, nên chúng không có mặt’?”
imā kho, gahapati, diṭṭhiyo sakkāyadiṭṭhiyā sati honti, sakkāyadiṭṭhiyā asati na hontī’”ti.

“Thưa Tôn giả, như thế nào là thân kiến có mặt?”
“Kathaṁ pana, bhante, sakkāyadiṭṭhi hotī”ti?

Ở đây, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân.
“Idha, gahapati, assutavā puthujjano ariyānaṁ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto, sappurisānaṁ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto

Họ quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc.
rūpaṁ attato samanupassati, rūpavantaṁ vā attānaṁ, attani vā rūpaṁ, rūpasmiṁ vā attānaṁ;

quán thọ như là tự ngã …
vedanaṁ attato samanupassati …pe…

tưởng …
saññaṁ …

các hành …
saṅkhāre …

quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.
viññāṇaṁ attato samanupassati, viññāṇavantaṁ vā attānaṁ, attani vā viññāṇaṁ, viññāṇasmiṁ vā attānaṁ.

Như vậy, này Gia chủ, là thân kiến có mặt”.
Evaṁ kho, gahapati, sakkāyadiṭṭhi hotī”ti.

“Và như thế nào, Thưa Tôn giả, là thân kiến không có mặt?”
“Kathaṁ pana, bhante, sakkāyadiṭṭhi na hotī”ti?

“Ở đây, này Gia chủ, vị Ða văn Thánh đệ tử được thấy các bậc Thánh, thuần phục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, được thấy các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân.
“Idha, gahapati, sutavā ariyasāvako ariyānaṁ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto sappurisānaṁ dassāvī sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto

Vị ấy không quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc,
na rūpaṁ attato samanupassati, na rūpavantaṁ vā attānaṁ, na attani vā rūpaṁ, na rūpasmiṁ vā attānaṁ;

không quán thọ … tưởng… hành …
na vedanaṁ … na saññaṁ … na saṅkhāre …

không quán thức như tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.
na viññāṇaṁ attato samanupassati, na viññāṇavantaṁ vā attānaṁ, na attani vā viññāṇaṁ, na viññāṇasmiṁ vā attānaṁ.

Như vậy, này Gia chủ, là thân kiến không có mặt”.
Evaṁ kho, gahapati, sakkāyadiṭṭhi na hotī”ti.

“Thưa Tôn giả, Tôn đức (Ayyo) Isidatta từ đâu đến?”
“Kuto, bhante, ayyo isidatto āgacchatī”ti?

“Này Gia chủ, tôi từ Avanti đến”.
“Avantiyā kho, gahapati, āgacchāmī”ti.

“Thưa Tôn giả, tại Avanti, có một thiện nam tử tên Isidatta, một người bạn xa cách của chúng tôi, đã xuất gia tu hành?”
“Atthi, bhante, avantiyā isidatto nāma kulaputto amhākaṁ adiṭṭhasahāyo pabbajito? Diṭṭho so āyasmatā”ti?

“Thưa phải, này Gia chủ”.
“Evaṁ, gahapatī”ti.

“Thưa Tôn giả, hiện nay Tôn giả ấy ở đâu?”
“Kahaṁ nu kho so, bhante, āyasmā etarahi viharatī”ti?

Khi được nói vậy, Tôn giả Isidatta im lặng.
Evaṁ vutte, āyasmā isidatto tuṇhī ahosi.

“Thưa Tôn giả, có phải Tôn đức ấy là Isidatta chăng?”
“Ayyo no, bhante, isidatto”ti?

“Thưa phải, này Gia chủ”.
“Evaṁ, gahapatī”ti.

“Vậy Thưa Tôn giả, Tôn đức Isidatta hãy thỏa thích ở tại Macchikāsaṇḍa. Khả ái là rừng Ambàtaka! Con sẽ hết sức cố gắng để cúng dường Tôn đức Isidatta với các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh”.
“Abhiramatu, bhante, ayyo isidatto macchikāsaṇḍe. Ramaṇīyaṁ ambāṭakavanaṁ. Ahaṁ ayyassa isidattassa ussukkaṁ karissāmi cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkhārānaṃ”ti.

“Thật là lời nói chí thiện, này Gia chủ”.
“Kalyāṇaṁ vuccati, gahapatī”ti.

Rồi Gia chủ Citta hoan hỷ, tín thọ lời nói của Tôn giả Isidatta, tự tay làm thỏa mãn, tự tay cúng dường các Tỷ-kheo trưởng lão với các món ăn thượng hạng loại cứng và loại mềm.
Atha kho citto gahapati āyasmato isidattassa bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā there bhikkhū paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.

Rồi các Tỷ-kheo trưởng lão, sau khi ăn xong, rời tay khỏi bát, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Atha kho therā bhikkhū bhuttāvino onītapattapāṇino uṭṭhāyāsanā pakkamiṁsu.

Rồi Tôn giả Thera nói với Tôn giả Isidatta:
Atha kho āyasmā thero āyasmantaṁ isidattaṁ etadavoca:

Lành thay, này Hiền giả Isidatta, câu hỏi này đã được Hiền giả trả lời.
“sādhu kho taṁ, āvuso isidatta, eso pañho paṭibhāsi.

Câu hỏi này không được ta trả lời.
Neso pañho maṁ paṭibhāsi.

Này Hiền giả Isidatta, trong dịp khác, nếu câu hỏi tương tự khởi lên, Hiền giả hãy trả lời như vậy”.
Tenahāvuso isidatta, yadā aññathāpi evarūpo pañho āgaccheyya, taññevettha paṭibhāseyyā”ti.

Rồi Tôn giả Mahaka dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, đi ra khỏi Macchikāsaṇḍa, và như vậy từ biệt Macchikāsaṇḍa không còn trở lui lại nữa.
Atha kho āyasmā isidatto senāsanaṁ saṁsāmetvā pattacīvaramādāya macchikāsaṇḍamhā pakkāmi. Yaṁ macchikāsaṇḍamhā pakkāmi, tathā pakkantova ahosi, na puna paccāgacchīti.

Tatiyaṁ.