WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 41.5 Kāmabhū (1)

Kinh Tương Ưng 41.5
Saṁyutta Nikāya 41.5

1. Phẩm Citta
1. Cittavagga

Kāmabhū (1)
Paṭhamakāmabhūsutta

Một thời Tôn giả Kāmabhū trú ở Macchikāsaṇḍa, tại rừng Xoài.
Ekaṁ samayaṁ āyasmā kāmabhū macchikāsaṇḍe viharati ambāṭakavane.

Rồi gia chủ Citta đi đến Tôn giả Kāmabhū; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Kāmabhū rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati yenāyasmā kāmabhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ kāmabhuṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.

Tôn giả Kāmabhū nói với gia chủ Citta đang ngồi một bên:
Ekamantaṁ nisinnaṁ kho cittaṁ gahapatiṁ āyasmā kāmabhū etadavoca:

“Này Gia chủ, lời này được nói đến:
“Vuttamidaṁ, gahapati:

‘Bánh xe không tì vết,
Mái trần che màu trắng,
Một bánh, xe vẫn chạy,
Vị điềm tĩnh đang đến,
Cắt đứt dòng hữu ái,
Không còn bị ràng buộc’.
‘Nelaṅgo setapacchādo,
ekāro vattatī ratho;
Anīghaṁ passa āyantaṁ,
chinnasotaṁ abandhanan’ti.

Này Gia chủ, lời nói vắn tắt này, ý nghĩa phải được hiểu như thế nào một cách rộng rãi?”
Imassa nu kho, gahapati, saṅkhittena bhāsitassa kathaṁ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti?

“Thưa Tôn giả, có phải lời nói này được Thế Tôn nói đến?”
“Kiṁ nu kho etaṁ, bhante, bhagavatā bhāsitan”ti?

“Ðúng vậy, này Gia chủ”.
“Evaṁ, gahapatī”ti.

“Vậy hãy chờ một lát, Thưa Tôn giả, con sẽ nghĩ đến ý nghĩa”.
“Tena hi, bhante, muhuttaṁ āgamehi yāvassa atthaṁ pekkhāmī”ti.

Rồi cư sĩ Citta, sau khi im lặng một lát, thưa với Tôn giả Kāmabhū:
Atha kho citto gahapati muhuttaṁ tuṇhī hutvā āyasmantaṁ kāmabhuṁ etadavoca:

“‘Bánh xe không tì vết’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với các giới luật.
“‘Nelaṅgan’ti kho, bhante, sīlānametaṁ adhivacanaṁ.

‘Mái trần che màu trắng’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với giải thoát.
‘Setapacchādo’ti kho, bhante, vimuttiyā etaṁ adhivacanaṁ.

‘Một bánh’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với niệm.
‘Ekāro’ti kho, bhante, satiyā etaṁ adhivacanaṁ.

‘Vẫn chạy’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với đi tới đi lui.
‘Vattatī’ti kho, bhante, abhikkamapaṭikkamassetaṁ adhivacanaṁ.

“Xe”, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với cái thân do bốn đại tạo thành này, do cha mẹ sanh ra, do cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, bị biến hoại, bị tiêu mòn, bị tiêu hủy, bị hủy diệt.
‘Ratho’ti kho, bhante, imassetaṁ cātumahābhūtikassa kāyassa adhivacanaṁ mātāpettikasambhavassa odanakummāsūpacayassa anicca-ucchādana-parimaddana-bhedana-viddhaṁsana-dhammassa.

Tham, Thưa Tôn giả, là một lỗi lầm. Sân là một lỗi lầm. Si là một lỗi lầm.
Rāgo kho, bhante, nīgho, doso nīgho, moho nīgho.

Ðối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, chúng được đoạn tận, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây Thốt-nốt, không có thể tái sanh, không có thể sanh khởi trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā.

Do vậy, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc được gọi là ‘điềm tĩnh’.
Tasmā khīṇāsavo bhikkhu ‘anīgho’ti vuccati.

‘Vị điềm tĩnh đang đến’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với vị A-la-hán.
‘Āyantan’ti kho, bhante, arahato etaṁ adhivacanaṁ.

“Dòng (hữu ái)”, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với khát ái.
‘Soto’ti kho, bhante, taṇhāyetaṁ adhivacanaṁ.

Ðối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, khát ái ấy được đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Thốt-nốt, không có thể tái sanh, không có thể sanh khởi trong tương lai.
Sā khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā.

Do vậy, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc được gọi là cắt đứt dòng (hữu ái).
Tasmā khīṇāsavo bhikkhu ‘chinnasoto’ti vuccati.

Tham, Thưa Tôn giả, là trói buộc. Sân là trói buộc. Si là trói buộc.
Rāgo kho, bhante, bandhanaṁ, doso bandhanaṁ, moho bandhanaṁ.

Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc, chúng được đoạn tận, chặt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Thốt-nốt, không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā.

Do vậy, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc được gọi là ‘không còn bị buộc’.
Tasmā khīṇāsavo bhikkhu ‘abandhano’ti vuccati.

Như vậy, Thưa Tôn giả, lời nói này được Thế Tôn nói đến:
Iti kho, bhante, yaṁ taṁ bhagavatā vuttaṁ:

‘Bánh xe không tì vết,
Mái trần che màu trắng,
Một bánh, xe vẫn chạy,
Vị điềm tĩnh đang đến,
Cắt đứt dòng hữu ái,
Không còn bị ràng buộc’.
‘Nelaṅgo setapacchādo,
ekāro vattatī ratho;
Anīghaṁ passa āyantaṁ,
chinnasotaṁ abandhanan’ti.

Thưa Tôn giả, lời nói vắn tắt này, ý nghĩa cần phải được hiểu rộng là như vậy”.
Imassa kho, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṁ vitthārena atthaṁ ājānāmī”ti.

“Lợi đắc thay cho Ông, này Gia chủ! Khéo lợi đắc thay cho Ông, này Gia chủ!
“Lābhā te, gahapati, suladdhaṁ te, gahapati.

Vì rằng tuệ nhãn của Ông tiếp tục lời dạy thâm sâu của đức Phật”.
Yassa te gambhīre buddhavacane paññācakkhu kamatī”ti.

Pañcamaṁ.